Trang chủ Blog Trang 146

Tìm hiểu tác dụng phòng và trị bệnh của Tỏi Đen

Từ rất xa xưa, tỏi được dùng làm gia vị thông dụng. Tỏi có tên khoa học là Allium sativum L. Họ: Hành (Alliaceae). Qua kinh nghiệm sử dụng làm thực phẩm, người ta cũng nhận thấy Tỏi lại có tác dụng chữa bệnh, từ đó Tỏi còn được dùng làm dược liệu có vai trò trong phòng và chữa được một số loại bệnh thường gặp trong cuộc sống hằng ngày.

Toiden

Tại Việt Nam, hiện có 2 nhóm Tỏi phổ biến được sử dụng:

  • Loại Tỏi củ nhỏ, thơm, nhiều tinh dầu, trồng nhiều ở các tỉnh Phía bắc.
  • Loại Tỏi củ to trồng ở các tỉnh phía nam (ven biển miền Trung, đảo Lý sơn – Quảng ngãi, Bình thuận và Ninh thuận) vì tính chất thổ nhưỡng và khí hậu có khác nhau nên nồng độ hoạt chất giữa 2 nhóm có thể không hoàn toàn giống nhau.

Bộ phận dùng làm gia vị hoặc làm thuốc là thân hành còn gọi giò hay củ, tên dược liệu cổ truyền là Đại toán. Ngoài các dạng tỏi sử dụng truyền thống từ trước đến nay như: tỏi ngâm dấm, ngâm đường, ngâm rượu…hiện nay, một dạng Tỏi được chế biến khi lên men gọi là Tỏi đen.
Tỏi đen (Black garlic) [1] được biết đến rất lâu ở Hàn quốc và Nhật bản, riêng tại Việt Nam, vài năm gần đây Tỏi đen bắt đầu được sử dụng làm thực phẩm. Đây là dạng tỏi được lên men từ tỏi tươi trong một thời gian dài, sản phẩm thu được sẽ có màu đen, vị ngọt, không còn mùi cay hăng của tỏi thường và có tác dụng tốt hơn Tỏi tươi. Vì sau khi lên men hàm lượng các nhóm hoạt chất tăng rất cao trong Tỏi đen, đặc biệt hàm lượng S-allyl-L-cystein (SAC).
Qua quá trình lên men nên tỏi đen giảm mùi hăng cay của tỏi tươi, tỏi trở nên ngon miệng hơn, dễ ăn hơn, đồng thời biến mất mùi hôi ở miệng sau khi ăn tỏi. Tỏi đen có hương vị như hoa quả sấy khô, ngọt và hơi dai, thường được dùng ăn kèm và trang trí trong nhiều món ăn ở các nhà hàng lớn.
1. Cách chế biến Tỏi đen: Tỏi tươi, chọn loại tốt được ủ ở nhiệt độ từ 60 – 800C, trong thời gian khoảng 30 – 45 ngày sẽ biến thành Tỏi đen. Chế biếnTỏi đen gọi là tốt khi bề ngoài Tỏi đen có màu đen nhánh, dẽo, không dính, có vị ngọt khi nếm.
2. Vì sao Tỏi có màu đen và tăng tác dụng sinh học khi lên men [2],[3]?
Trong quá trình lên men, protein trong tỏi tươi bị cắt thành các amino acid, carbohydrate, đặc biệt allicin thành chất không mùi, alliin giảm tính kích thích và bị khử oxy vì thế tỏi trở thành màu đen. Tỏi đen thay đổi vị, mùi, ăn được, dễ hấp thu và duy trì được giá trị trong y học. Hoạt tính của men SOD (Superoxide dismutase) mạnh gấp 8,7 lần tỏi tươi, nồng độ polyphenol có tác dụng chống gốc tự do mạnh hơn tỏi tươi 10 lần.
Thành phần khác nhau của 2 dạng tỏi tươi và đen:

  SAC (mg/g) Calcium (mg) Phosphorus (mg) Protein (g)
Tỏi đen 5,84 36,66 80 12,5
Tỏi tươi 0,32 5,0 40 2,2

Khi lên men, Tỏi đen sẽ có chứa một số hợp chất có hoạt tính mà tỏi tươi không có hoặc có rất ít như: chất polyphenol, flavonoid, carboline, thiosulfate.
3. Tác dụng sinh học của tỏi đen [3],[4]:
Ngoài các tác dụng giống như tỏi tươi, tỏi đen còn có thêm những tác dụng rất quý. Trong Tỏi đen có hợp chất SAC với hàm lượng cao, chất này được chứng minh có nhiều tác dụng sinh học quý như: chống oxyt hoá, điều biến hệ miễn dịch, ức chế tế bào ung thư cao hơn từ 6 – 12 lần so với tỏi tươi. Khi thử nghiệm trên chuột, chất này có tác dụng chống phân bào trên một số loại ung thư như: phổi, gan, đại tràng…

– Tác dụng chống ung thư:
Quá trình lên men dài đã biến tỏi tươi thành một loại “siêu tỏi” (super-garlic). Hợp chất SAC (một thành phần tự nhiên có trong tỏi tươi) và một dẫn xuất của amino acid cysteine được thấy có hàm lượng lớn hơn nhiều trong tỏi đen so với tỏi tươi, chúng có tác dụng chống gốc tự do, hạn chế sự phát triển của tế bào ung thư. Các nghiên cứu về tác dụng sinh học của tỏi đen cho thấy: Các hợp chất sulfur hữu cơ, dẫn chất của tetrahydro carboline được hình thành từ quá trình lên men có hoạt tính mạnh chống gốc tự do và ức chế quá trình peroxyt hóa lipid. Ngoài ra dịch chiết tỏi đen có hiệu lực mạnh kháng lại các tế bào khối u do vậy có tác dụng phòng và hỗ trợ điều trị ung thư. Cơ chế chống ung thư của tỏi đen không phải bằng cách trực tiếp gây độc tế bào ng thư mà thông qua con đường kích thích đáp ứng miễn dịch, hạn chế khả năng di căn của các tế bào khối u. Mọt vài nghiên cứu cũng cho thấy rằng tỏi đen giàu chất SAC làm giảm sự phát triển của khối u ruột kết.
– Tác dụng chống vi khuẩn, virus, kháng nấm:
Tỏi tươi chứa các tác nhân chống vi khuẩn, kháng sinh và chống các loại nấm trong thành phần hoạt động allicin của nó. Ở trong tỏi đen, S-ally-L-cysteine hỗ trợ sự hấp thụ allicin, giúp cho sự hấp thụ, chuyển hóa allicin dễ dàng hơn, do đó thúc đẩy mạnh mẽ khả năng tự bảo vệ của cơ thể chống lại vi khuẩn, virus xâm nhập, nhiễm nấm.
– Tác dụng phòng bệnh mạn tính không lây:
Tỏi đen được chứng minh có đặc điểm chống oxyt hóa cao gấp 2 lần tỏi thông thường. Các chất chống oxyt hóa bảo vệ tế bào khỏi bệnh tật, lão hóa, do đó có thể làm chậm lại quá trình lão hóa. Vì thế, tỏi đen có thể hỗ trợ điều trị và phòng các bệnh mạn tính như bệnh tăng huyết áp, bệnh Alzheimer, bệnh đái tháo đường…
Như vậy, tỏi đen được tạo ra sau quá trình lên men có các tác dụng sinh học hơn hẳn so với tỏi thông thường.
– Các tác dụng khác:

o Bảo vệ gan: ổn định men SGOT, SGPT, chống gan nhiễm mỡ,
o Điều biến hệ miễn dịch (immune modulation), giúp cơ thể chống lại tình trạng nhiễm trùng, nhiễm độc.
Như vậy, tỏi đen vừa có tác dụng tốt với sức khỏe, vừa ăn ngon miệng. Vì thế nó ngày càng được sử dụng phổ biến hơn trong các nhà hàng chất lượng cao và trong nhiều món ăn trên thế giới.
5. Liều dùng:
Tuỳ theo mục đích sử dụng trong phòng bệnh hay chữa bệnh và tuỳ thể trạng của người dùng, liều lượng sẽ thay đổi. Tuy nhiên, có thể sử dụng trong hay sau bữa ăn:
Phòng bệnh: từ 2 đến 3 tép tỏi đen/ngày,
Chữa bệnh: trung bình 1 củ (nhiều tép)/ngày.

HIện nay, có một số công ty bào chế Tỏi đen dạng viên (có kết hợp với dược liệu khác hoặc không), liều dùng sẽ theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Lưu ý: cần cân nhắc khi dùng cho trẻ em và phụ nữ mang thai.
Cho dù Tỏi đen được dùng trong ngành thực phẩm và y học từ nhiều năm tại các nước như: Singapore, Hàn quốc, Nhật,…Tuy nhiên, tại Việt Nam, Tỏi đen chỉ mới được biết và sử dụng mới vài năm gân đây do đó chúng ta cần thêm thời gian để theo dõi và đánh giá xác thực về tác dụng phòng và trị bệnh của một loại vừa là thực phẩm cũng đồng thời là thuốc: Tỏi đen.

[1]. Công trình nghiên cứu của Học viện quân y,

[2]. Tạp chí khoa học và kỹ thuật cây hương liệu và cây thuốc (The journal Medicinal and Aromatic Plant Science and Technology).

[3]. Một nghiên cứu được thực hiện tại Trường Đại học Bang Pennsylvania.

[4]. http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed

Bs Trần Văn Năm – Nguyên phó Viện Trưởng Viện Y dược học dân tộc thành phố Hồ Chí Minh

Hội nghị tập huấn kỹ năng Tư Duy và Thực Hành Xã Hội tại Viện Y dược học dân tộc – Diễn giả Trịnh Xuân Khanh

Kỹ năng thực hành xã hội là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của một cá nhân trong môi trường làm việc hiện nay, vốn dĩ đầy áp lực và luôn đòi hỏi cao về nhiều mặt. Đặc biệt, trong môi trường y tế, yêu cầu đó càng khắc khe hơn với đòi hỏi sự tận tuỵ, và mức độ chuyên nghiệp cao. Do vậy, kỹ năng thực hành xã hội càng trở nên cần thiết. Đáp ứng nhu cầu thực tế đó, chiều 23/06/2015 ban  giám đốc Viện y dược học dân tộc TpHCM đã tổ chức buổi hội nghị chủ đề ” kỹ năng thực hành xã hội” cho toàn thể nhân viên và đại biểu khách mời tại hội trường lớn.
4
Diễn giả Trịnh Xuân Khanh, báo cáo viên chính của hội nghị, qua khoảng 3 giờ làm việc ông đã thực sự  mang đến cho người nghe những nhận thức mới và thay đổi sâu sắc trong tư duy theo chiều hướng tích cực.
3 5
Mở đầu bằng câu chuyện sự thay đổi sống còn của đại bàng ở tuổi 40. Nếu muốn tiếp tục sinh tồn và phát triển đại bàng phải trải qua giai đoạn biến hình, thay đổi toàn bộ móng vuốt mới vô cùng đau đớn. Chúng ta nhận thức được rằng không có sự thay đổi nào là dễ dàng. Nhưng nếu không chấp nhận thử thách và tự trải nghiệm những khó khăn thì có lẽ chúng ta sẽ không thể phát triển và thậm chí không còn giá trị tồn tại. Bằng những câu chuyện hấp dẫn, lôi cuốn và liên tục như thế, diễn giả Trịnh Xuân Khanh từng bước dẫn dắt người nghe mở được cánh cửa thành công của chính mình. Đó là sự khác biệt giữa “tư duy làm thuê” và “tư duy doanh nhân”. Đó là 6 sản phẩm của chính bản thân mình mà không phải ai cũng nhận ra như: Thời gian; Kỹ năng; Sức khoẻ; Kiến thức; Ngoại hình; Tính cách. Nếu không thường xuyên tự trao dồi, nâng cao 6 sản phẩm cá nhân này thì chẳng khác nào tự đào thải chính mình.
Như vậy, tư duy là chìa khoá của thành công. Đôi khi, chúng ta phải biết chấp nhận đưa ra những quyết định khó khăn, để phát triển trên một hành trình mới. Tương lai không đâu xa, mà bắt đầu chính từ suy nghĩ của hôm nay.

Ths.Bs Trần Minh Quang.

Viện Y dược học dân tộc tham dự chương trình “Ngày Hội Sức Khỏe” của Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh

Sáng 21/10/2015, hưởng ứng ngày hội sức  khoẻ tại lãnh sự quán Hoa Kỳ, viện y dược học dân tộc TpHCM đã tham gia gian hàng triển lãm nhằm giới thiệu các hoạt động trị liệu bằng y học cổ truyền Việt Nam nói chung, cũng như các hoạt động của viện y dược TpHCM nói riêng tới đơn vị bạn và bạn bè trên thế giới.
2
Tham dự triển lãm, bác sĩ của Viện đã tư vấn cho đối tượng quan tâm những thắc mắc về các vấn đề sức khoẻ và qua đó đưa ra giải pháp trị liệu bằng phương pháp cổ truyền Việt Nam như dược thảo, châm cứu, xoa bóp, dưỡng sinh…
Đồng thời, viện cũng đã mang đến cho triển lãm những trải nghiệm thú vị như massage lòng bàn chân, ngâm chân dược thảo với sự hỗ trợ kỹ thuật viên chuyên nghiệp của Viện.
Qua ngày hội, viện đã mang đến cho triển lãm một không gian riêng, đậm tính y học cổ truyền, mang tính dân tộc và đại chúng, đúng với nhiệm vụ chính trị đã vinh dự được giao.
Một số hình ảnh hoạt động./.1 3 44 5 6 7

Ths.Bs Trần Minh Quang, Khoa Nội Tim Mạch – Thần Kinh.

Thổi lửa từ đống tro tàn

Chăm sóc bệnh nhân ở Khoa Nội II, BV Y dược học dân tộc TP.HCM

Hơn 10 năm qua, Khoa Nội II, Viện Y dược học dân tộc TP.HCM (273 – 275 Nguyễn Văn Trỗi, Q.Phú Nhuận, TP.HCM) đã trở thành một “địa chỉ đỏ” cho hàng trăm bệnh nhân ung thư tới điều trị với “liệu pháp 4 T”. Những người trong cơn “thập tử nhất sinh” đã giảm nhẹ những cơn đau, những lo âu, thậm chí có bệnh nhân sống được hơn 10 năm, lập gia đình và sinh con sau khi bị ung thư.

Tây y chê, Đông y cứu

“Đã 10 năm trôi qua, nằm mơ tôi cũng không thể ngờ mình vẫn sống và có được như ngày hôm nay: lấy chồng, sinh hai đứa con khỏe mạnh một trai, một gái” – chị Hoàng Thị Bích N. (30 tuổi, ngụ Q.Tân Bình) xúc động cho biết. 10 năm trước chị N. bị u đại bào xương đùi phải. Sau ghép xương một năm, bệnh tái phát nhanh, người suy kiệt, đầu gối sưng to, không đi và không ăn ngủ được. “Bác sĩ khuyên tôi phải chấp nhận đoạn chi, cưa ngang đùi. Lúc đó tôi chưa lập gia đình. Cưa chân để kéo dài cuộc sống là điều mình chưa bao giờ nghĩ tới. Tôi nghĩ mình đằng nào cũng chết, để vậy khi “nhắm mắt” cũng còn lành lặn đôi chân. Trong thời gian đợi mọi người lo hậu sự, may sao có người bà con chỉ cho tôi đến Khoa Nội II, Viện  Y dược học dân tộc. Trong tâm trạng hoài nghi, bi quan, tôi gặp được BS Quan Vân Hùng, khi đó là Trưởng khoa Nội II. Ông đã dành hẳn cho tôi một buổi sáng, tìm hiểu bệnh án, hỏi han và động viên tôi. Và, tôi tham gia chương trình điều trị của BS Hùng. Không ngờ bệnh đỡ dần, khối u trên chân phải dần nhẹ bớt, sau ba tháng tôi tự đi lại được… Sau ba năm tôi lập gia đình và năm 25 tuổi tôi sinh con đầu lòng, cháu hoàn toàn khỏe mạnh. Tôi đã có bé thứ hai, hàng ngày tôi vẫn đi làm tại cửa hàng tạp hóa, chăm sóc gia đình dù bệnh chưa khỏi hẳn, cảm giác đau một chút khi thay đổi thời tiết”.

Có mặt tại Khoa Nội II, Viện Y dược học dân tộc TP.HCM, trước mắt tôi là một dãy phòng khiêm tốn, nhưng yên tĩnh và thoang thoảng mùi cây cỏ. Nơi đây đang tiếp nhận điều trị cho hơn 70 người mắc bệnh nan y. Chúng tôi gặp bà cụ H.T.M. đang cầm một chai thuốc sắc, nhâm nhi từng ngụm nhỏ. Cụ H.T.M. (85 tuổi, Q.Phú Nhuận) nhà cạnh Viện Y dược học dân tộc TP.HCM bị bệnh ung thư. Cụ M. nói: “Tôi nằm ở đây đã hơn một năm rồi, trước khi đến BV, chân tôi tê buốt, nhức ghê lắm, giờ đỡ hơn nhiều. Trước đây mất ngủ triền miên, người chỉ có 30kg, nay được 32kg, ăn, ngủ đã khá hơn”.

Ông H.V.K. (60 tuổi, ở Quảng Ngãi) kể, sau khi phát hiện ông bị ung thư dạ dày đã di căn vào gan, phổi BS đã cắt bỏ phần có khối u. Ông K. về với gia đình và uống thuốc theo đơn. Sức khỏe của ông giảm sút rõ rệt. “Còn nước còn tát”, được sự tư vấn của người quen, con gái của ông đưa ông vào TP.HCM, tới Viện Y dược học dân tộc TP.HCM để điều trị bằng Đông y. Rất đáng mừng, sau gần một năm, lời tiên lượng của BS mổ cho ông đã không những không xảy ra mà các triệu chứng khó chịu trước đây như nôn nao, mặt mày xây xẩm, đau đớn đã dần biến mất. Ông sống lạc quan hơn, vui vẻ hơn và có thể phụ giúp gia đình các công việc nhẹ nhàng.

 

Chăm sóc bệnh nhân ở Khoa Nội II, BV Y dược học dân tộc TP.HCM
Chăm sóc bệnh nhân ở Khoa Nội Ung Bướu, BV Y dược học dân tộc TP.HCM.

Liệu pháp “4 T”

Theo BS Quan Vân Hùng (người nghiên cứu và đưa phương pháp 4 T vào ứng dụng), ung thư là một bệnh lý đặc biệt. Y học hiện đại đã có những thành công trong việc tiêu diệt các tế bào ác tính bằng những “vũ khí” hạng nặng như: phẫu thuật cắt bỏ khối u, hóa trị, xạ trị… Tuy nhiên, sau khi sử dụng những “vũ khí” hiện đại trên để tiêu diệt kẻ thù thì “quân ta” cũng bị tổn thất không nhỏ, nhiều tế bào, mô, bộ phận khác của người bệnh cũng bị ảnh hưởng, khiến người bệnh có cảm giác đuối sức, ói mửa, mất ăn, mất ngủ, suy kiệt… Vì vậy, phải có một cơ chế “hậu chiến”. Vấn đề là người thầy thuốc phải nỗ lực giúp cho người bệnh thổi lên ngọn lửa từ đám tro tàn. Thầy thuốc “mát tay” sẽ giúp cho tinh thần bệnh nhân được cải thiện, sức khỏe tăng tiến hơn, khối u bị ức chế một phần cũng bớt tàn phá cơ thể, bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối vẫn có thể cầm cự được với bệnh. Ý nghĩa cuộc sống đôi lúc không phải chỉ đo bằng khoảng thời gian dài hay ngắn mà nó lại nằm ở chất lượng sống. Và đó là điều mà người thầy thuốc đang cố gắng chuyển cho người bệnh. Liệu pháp 4T gồm: Tâm lý – Thực phẩm – Thể thao – Thuốc. Tạo tâm lý thoải mái, bớt lo âu, căng thẳng, không sợ hãi cho người bệnh. Người bệnh có chế độ ăn – thực phẩm phù hợp, kiêng một số thức ăn, uống có hại cho cơ thể; ăn một số thực phẩm chống ung thư và bồi dưỡng sức khỏe. Người bệnh được tập dưỡng sinh, đi bộ, thái cực quyền… Thuốc: kết hợp Đông Tây y, châm cứu, bấm huyệt).

BS Trần Tuấn Khanh, Phó Trưởng khoa Nội II cho biết, hiện mỗi ngày, khoa có khoảng 70 bệnh nhân. Phương pháp nào cũng có ưu khuyết điểm, người bệnh cần tư vấn của BS, có thể điều trị Tây-Đông y phối hợp để đạt hiệu quả cao nhất. Trong những trường hợp bệnh tiến triển vào giai đoạn cuối không thể sử dụng “vũ khí” hạng nặng như phẫu thuật, hóa trị, xạ trị thì cần biết rằng ngành y học cổ truyền có thể giúp kéo dài cuộc sống, cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh.

Muốn phòng ngừa và điều trị bệnh mạn tính, ngoài dùng thuốc, còn phải hướng dẫn bệnh nhân kiên trì thực hiện thay đổi lối sống và thay đổi chế độ ăn. “Liệu pháp 4T” của Viện Y dược học dân tộc TP thực hiện như sau:.

T1 – Tạo một lối sống – tinh thần luôn bình an (thanh tâm), tiến tới lối sống “3 giảm – 1 không”. Tức là giảm lo, giảm buồn, giảm giận và không sợ. Theo y học cổ truyền, lo lắng sẽ hại bộ máy tiêu hóa (tư thương tì), buồn sẽ hại bộ máy hô hấp (bi thương phế), giận hại bộ máy vận động (nội thương can), sợ hại bộ máy sinh dục, tuyến thượng thận, thận, xương tủy (khủng thương thận). Thường xuyên lo sợ là nguy hiểm nhất vì gây suy giảm miễn dịch.

T2 – Thực phẩm – chế độ ăn: Người bệnh chọn các thức ăn uống có chứa các vitamin kháng ung (vitamin A, B, C, E), có khoáng chất chống ung thư (ma-nhê, kẽm, germanium, selenium). Nên kiêng cữ hẳn: mỡ động vật (heo, gà, bò), hạn chế thịt nướng – hun khói – chiên, muối, đường, trứng, hóa chất (phẩm màu, hương – vị thực phẩm, chất bảo quản, phụ gia…), thực phẩm công nghiệp – đồ hộp. Bệnh nhân nên ăn những thực phẩm tươi, cơm gạo lứt, rau (bông cải, dền, bắp cải), củ (cà rốt…), đậu (đậu trái, đậu hột: đậu đen-đỏ), nấm (nấm bào ngư, nấm đông cô, nấm tuyết, nấm mèo đen, nấm kim chi, nấm mỡ, nấm hầu thủ), rong tảo biển, trái cây (táo, dâu…), tỏi, hành tím, rau thơm, mè đen. Ngoài ra, cần uống đủ nước, nước khoáng kiềm, nước trà xanh, nước trái cây, nước gạo lứt rang, nước đậu đen, sữa đậu nành tươi (mới nấu).

T3 – Tập dưỡng sinh: Có nhiều phương pháp tập luyện nhằm nâng cao sức khỏe (hệ miễn dịch) như xoa bóp giúp thúc đẩy lưu thông khí huyết, chống ứ trệ; tập thở sâu khi mệt, căng thẳng; tập thái cực quyền (môn võ dưỡng sinh rất phù hợp cho người lớn tuổi, sức khỏe kém, vừa giúp vận động toàn thân, lại giúp tinh thần bình an); tập khí công, yoga…; đi bộ chậm, thở sâu.

T4 – Thuốc: thuốc Tây (điều trị triệu chứng) kết hợp với Đông dược, chú ý dược liệu bổ tinh-khí thần, dùng thuốc từ cây cỏ, cơ thể hấp thu dễ, nhanh, tăng cường lưu thông khí huyết, không phản ứng phụ.

BS Quan Vân Hùng

“Thời gian qua, việc hỗ trợ điều trị ung thư bằng y học cổ truyền nói chung và sử dụng phương pháp 4T nói riêng đã có những hiệu quả nhất định, góp phần không nhỏ trong việc cải thiện sức khỏe và chất lượng sống cho người bệnh. Phương pháp này đang được nhân rộng trong cộng đồng”.

BS Trần Hữu Vinh
(Trưởng phòng Quản lý y học cổ truyền Sở Y tế TP.HCM)

Theo phunuonline.com.vn(http://phunuonline.com.vn/xa-hoi/thoi-lua-tu-dong-tro-tan-39488)

Điều trị bệnh zona (Dời Leo) bằng Y Dược Cổ Truyền (YDCT)

Ảnh minh họa.

Có lẽ mọi người lo lắng nhất khi bị bệnh zona (Dời leo, herpes zoster) là những biểu hiện các bóng nước ngoài da, một trong những bệnh thường gặp ở những người cao tuổi có sức đề kháng giảm. Tuy nhiên, người trẻ tuổi với tổng trạng không suy nhược cũng thỉnh thoảng có thể mắc phải.

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

1. Nguyên nhân gây bệnh: Do vius có tên varicella zoster tấn công vào cơ thể.
2. Biểu hiện của bệnh:
– Cảm giác đau rát vài ngày (lúc này chưa có các mụn nước xuất hiện, rất dễ nhằm với đau dây thần kinh liên sườn, đau do nguyên nhân khác) trước khi xuất hiện các bỏng nước trên mặt da, mọc thành từng cụm đường kính trung bình từ 2 – 3 cm, có thể lan nhanh và nổi thành từng mảng to. Vị trí của các bóng nước nằm trên vùng da chi phối của dây thần kinh bị bệnh.
– Có thể sốt nhẹ chung quanh 38 độ C kèm nhức mỏi cơ như các dấu hiệu của một loại virus cảm cúm thông thường.
– Dấu hiệu đặc trưng là đau, buốt, bỏng rát như bỏng lửa nơi các bỏng nước tương tự như bị chấn thương hoặc mụn nhọt sắp sửa mọc.
– Bệnh thường xảy ra vào mùa mưa, thời tiết lạnh kèm độ ẩm không khí cao. Đây cũng là thời điểm xảy ra bệnh do các loại siêu vikhuẩn như thuỷ đậu, sởi, quai bị…
– Các bóng nước kéo dài từ 15 – 20 này, khô dần và tróc ra để lại sẹo mất sắc tố melatonin nên sẹo có màu trắng. Đau sẽ giảm dần nhưng không khỏi hẳn có thể đau kéo dài từ 6 tháng đến 1 năm.
3. Phương pháp điều trị bằng YDCT:
Nguyên tắc chung: kháng sinh, chống viêm, chống bội nhiễm (nhiễm khuẩn cơ hội), tăng thải độc (đường đại – tiểu tiện), tăng sức đề kháng và điều trị càng sớm hiệu quả càng cao.
– Chăm sóc: nghỉ ngơi, ăn đủ chất (đặc biệt sinh tố B, C, A…có trong rau quả tươi), uống nhiều nước (khoảng 2 – 2,5 lít/ngày).
– Bôi ngoài: dịch chiết Hoàng liên, Tô mộc, tinh dầu mù u…
– Thuốc uống trong: thuốc Nam (Rau má, cỏ Mần trầu, Cỏ mực, Kim ngân hoa, Rễ tranh, Sài đất…; Chế phẩm (Toa căn bản, Thanh nhiệt tiêu độc – f…); Thuốc cổ phương (Nhân sâm bại độc gia giảm, Kinh phòng bại độc thang).
4. Kết quả:
Qua nhiều năm áp dụng quy trình điều trị trên, chúng tôi đã giúp người bệnh hạn chế được di chứng đau, rút ngắn thời gian tổn thương trên da, trong nhiều trường hợp nhẹ và khởi đầu điều trị sớm, không phải sử dụng đến các thuốc diệt virus tân dược như acyclovir, famciclovir, hay valacyclovir.

Bs Trần Văn Năm – Nguyễn phó viện trưởng Viện Y dược học dân tộc thành phố Hồ Chí Minh.

Hội thảo khoa học chủ đề “ Thành tựu khoa học của Châm cứu Việt Nam” và đào tạo y khoa liên tục năm 2015

Ngày 23/10/2015 tại Viện Y dược học dân tộc Tp. Hồ Chí Minh (273, Nguyễn Văn Trỗi, Phường 10, Quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh) đã diễn ra hội thảo khoa học chủ đề “ Thành tựu khoa học của Châm cứu Việt Nam” và đào tạo y khoa liên tục năm 2015.

1

 

Hội thảo vinh dự được đón tiếp PGS.TS PHẠM VŨ KHÁNH – Cục trưởng Cục quản lý Y dược cổ truyền Bộ y tế; PGS TS NGUYỄN TẤN BỈNH – Bí thư Đảng ủy, Giám đốc sở y tế TP Hồ Chí Minh; ThS TRẦN VĂN XỒI – Phó bí thư thường trực Đảng ủy Sở y tế; GS TS NGHIÊM HỮU THÀNH – Giám đốc Bệnh viện Châm cứu Trung ương; BS LÊ HÙNG – Chủ tịch hội Đông y thành phố; PGS TS LÊ ANH THƯ – Phó chủ tịch Hội Thấp khớp học Việt Nam và sự hiện diện của các đồng chí là lãnh đạo Viện Y Dược học dân tộc, Bệnh viện Y Học cổ truyền và thường trực tỉnh hội Hội Đông Y các tỉnh thành khu vực phía Nam.

4
GS TS Nghiêm Hữu Thành– Giám đốc Bệnh viện Châm cứu Trung ương.
7
PGS TS Lê Thanh Thư – Phó chủ tịch Hội Thấp khớp học Việt Nam
8
TS.BS. Nguyễn Thị Tân – Trưởng Bộ môn Y học cổ truyền Đại học Y Dược Huế.
11
BS Lê Hùng – Chủ tịch hội Đông y thành phố Hồ Chí Minh.
12
TS BS Ngô Anh Dũng – Chuyên gia Viện Y Dược Học Dân Tộc thành phố Hồ Chí Minh.
13
TS BS Trương Thị Ngọc Lan, Phó trưởng phòng Đào Tạo – Nghiên Cứu Khoa Học – Chỉ Đạo Tuyến.
14
Bs CKI Huỳnh Nguyễn Lộc – Bí thư Đảng Ủy, Viện Trưởng Viện Y Dược Học Dân Tộc thành phố Hồ Chí Minh.

18

PGS.TS.BS. Phạm Vũ Khánh – Cục trưởng cục Y Dược Cổ Truyền – Bộ Y tế.      Hội thảo thu hút hơn 400 người tham dự với nhiều chuyên đề bổ ích. 
Đặc biệt tại phần giao lưu các vấn đề về Châm cứu, cả hội trường đã rất xúc động khi nghe phần chia sẻ nghẹn ngào của bệnh nhân Thảo Viên (khoa Nội Tim mạch – Thần kinh) về sự biết ơn sâu sắc của bản thân đối với GS TS NGHIÊM HỮU THÀNH (Giám đốc Bệnh viện Châm cứu Trung ương). Đó là vị thiên thần áo trắng mà ngay từ lần châm cứu đầu tiên đã giúp cô gái này đứng dậy, bước đi sau 2 tuần nằm trên giường do bệnh lý mạch máu não, để đón chờ nhiều hy vọng trong cuộc sống ở tương lai phía trước. 

15 16

      Hội thảo nhằm tạo điều kiện giao lưu, trao dồi y đức, bồi dưỡng, cập nhật và đào tạo liên tục chuyên môn nghiệp vụ, trong lực lượng thầy thuốc y học cổ truyền, và cán bộ viên chức ngành y học cổ truyền, góp phần đẩy mạnh công tác khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe người dân.

6 5

191

Chữa liệt mặt ngoại biên bằng châm cứu

Liệt mặt ngoại biên là gì?
Liệt mặt ngoại biên (LMNB) còn gọi là liệt dây thần kinh số 7 hay Bell’s palsy  (tiếng Anh), theo tên Charles Bell, nhà giải phẫu người Scotland ở thế kỷ thứ 19, người đầu tiên mô tả dây thần kinh này.
Gọi là liệt ngoại biên để phân biệt với liệt trung ương có nguyên nhân ở não bộ, trong bài viết này chỉ đề cập đến mặt ngoại biên vì bệnh thường gặp và có tỉ lệ lành bệnh cao.
1

Bệnh xảy ra khi thời tiết thay đổi nhanh từ nóng sang lạnh hoặc ngược lại, nhưng tại phía nam Việt Nam tỉ lệ mắc bệnh nhiều vào những ngày tháng 11 đến tháng 2 Dương lịch hàng năm. Thời điểm khác trong năm vẫn có bệnh nhưng tỉ lệ bệnh thấp hơn.

Dây thần kinh số 7 đi qua ống xương trong sọ bên dưới tai đến chi phối cơ một bên mặt, bao gồm động tác nhắm và nháy mắt, biểu lộ cảm xúc như vui cười hay cáu giận. Thêm vào đó, dây thần kinh 7 còn chi phối tuyến nước mắt, nước bọt, và những cơ của các xương nhỏ của tai trong (xương bàn đạp) cũng như vị giác ở lưỡi. Nên khi bị tổn thương dây tk 7 xảy ra thì các bộ phận chịu sự chi phối của nó đều bị ảnh hưởng.

Bệnh LMNB có thường gặp không?

Theo Viện Sức khoẻ Quốc gia Mỹ (National Institute of Health, NIH), liệt mặt ngoại biên mỗi năm ảnh hưởng khoảng 40.000 nười Mỹ ở cả nam và nữ thường độ tuổi từ 15 – 60 tuổi, nhưng  bất kỳ độ tuổi nào cũng có thể mắc bệnh.

Tại sao bị LMNB?

Nguyên nhân chính xác đến nay chưa rõ, các nhà khoa học cho rằng hiện tượng viêm và phù nề dây thần kinh số 7 đóng vai trò chủ yếu, gây thiếu máu và oxygen đến nuôi dây thần kinh. Tổn thương có thể kết hợp với bệnh cúm hoặc giả cúm, đau đầu, viêm tai giữa mạn tính, tăng huyết áp, đái tháo đường, viêm đường hô hấp trên kéo dài, ung bướu…

Làm thế nào để nhận biết bệnh LMNB?

Bệnh được chẩn đoán dựa chủ yếu vào sự khám xét của thầy thuốc là chính, đôi khi người bệnh có thể tự nhận biết hoặc nghi ngờ mình bị bệnh qua các biểu hiện như sau: 

  • mắt giật, 
  • liệt nhẹ hoặc hoàn toàn cơ một bên mặt (rất hiếm cả 2 bên), 
  • sụp mi mắt hoặc khoé miệng, 
  • chảy nước bọt tự động, 
  • khô mắt hoặc miệng, 
  • vị giác thay đổi, 
  • tăng tiết nước mắt, 
  • đau hoặc cảm giác  khó chịu vùng xương gò má dưới mắt và sau tai,
  • đau đầu, 
  • nhạy cảm với tiếng động, 
  • chóng mặt, 
  • giảm thính lực, 
  • nói kém lưu loát… 

 

Các triệu chứng này xảy ra đầy đủ trong vòng 48 giờ.

Khi cần nghiên cứu hoặc những trường hợp người bệnh chậm hoặc phục hồi kém người thầy thuốc sẽ chỉ định thực hiện thêm các kỹ thuật cần thiết khác như: Đo điện cơ, chụp X-quang, chụp cắt lớp, cộng hưởng từ…

LMNB có phải do tai biến mạch máu não hay thiếu máu não thoáng qua không?

Chắc chắn LMNB không phải do hai bệnh lý kể trên gây ra, và tiên lượng LMNB nói chung rất tốt. Sự cải thiện dần dần và thời gian hồi phục hồi rất thay đổi từng người.  

Có điều trị hay không có điều trị, đa số triệu chứng sẽ tốt dần sau khoảng 2 tuần và vận động cơ mặt phục hồi lại chức năng của nó sẽ tốt nhất vào khoảng từ 3 đến 6 tháng. Tuy nhiên trong vài trường hợp có sự phục hồi châm hàng năm và không hoàn toàn, thỉnh thoảng hiếm có trường hợp tái phát liệt cùng bên liệt cũ hoặc đối bên.

Điều trị liệt mặt ngoại biên như thế nào?

Theo Y Học Hiện Đại (YHHĐ):

–        Thuốc chống viêm steroid (prednisone) để giảm viêm chống phù nề,

–        Thuốc kháng virus (acyclovir) khi có bằng chứng nhiễm virus ( herpes, đậu mùa, herps zoster,…).

–        Thuốc giảm đau (acetaminophen, aspirin, ibuprofen…) nếu có đau,

–         Vitamin nhóm B.

–         Lưu ý dùng dịch bôi trơn, làm ẩm tránh khô mắt gây nhiễm trùng mắt.

–        Phẫu thuật thẩm mỹ , tiêm Botulinum toxin…đối với những trường bị co rút cơ mặt nhiều hoặc mắt nhắm không kín gây dễ nhiễm trùng, miệng di lệch gây khó khăn trong ăn uống, phát âm…

Theo Y Học Cổ Truyền (YHCT):

Châm cứu và thuốc YHCT được sử dụng hàng năm trong điều trị các chứng đau, liệt vận động… Thực tế cho thấy phần lớn người bệnh trong và ngoài nước ưa chuộng phương pháp điều trị dùng thuốc có nguồn gốc thiên nhiên cũng như phương pháp không dùng thuốc trong đó có châm cứu được nhiều bệnh tìm đến với mong ước là rút ngắn thời gian phục hồi vận động cơ mặt. Như chúng ta biết, không có gì khổ tâm bằng khi một mắt nhắm không kín, không dám cười với bạn bè, người thân (miệng méo một bên), không biểu lộ được hết cảm xúc vui buồn trên khuôn mặt…

Người bệnh liệt mặt ngoại biên đến với các cơ sở khám chữa bệnh bằng YHCT, thường nằm trong 3 dạng theo tỉ lệ từ cao xuống thấp:

–         Đang được điều trị thuốc tại cơ sở khám chữa bệnh YHHĐ nhưng mong muốn nhanh phục hồi hoặc do phản ứng ngoại ý của thuốc kháng viêm, kháng virus…

–         Quen dùng thuốc YHCT để chữa bệnh và quyết định chọn châm cứu để chữa bệnh,

–         Điều trị thời gian dài bằng YHHĐ nhưng tình trạng liệt các cơ mặt phục hồi chậm.

Có nên chọn điều trị liệt mặt bằng châm cứu không?

Chúng ta nhìn lại các hiệu ứng của châm cứu đã được công bố và nhiều người đồng thuận:

  • châm cứu có tác dụng giảm đau (kích thích sản sinh chất giảm đau nội sinh: chất bêta-endorphin), 
  • chống viêm tại chỗ (có tham gia của các tế bào bạch cầu, lympho bào, cytokine), 
  • tăng tuần hoàn máu nên oxygen và dưỡng chất đến tại vùng châm cứu nhiều hơn…

Rõ ràng theo cơ chế bệnh của liệt dây thần số 7 ngoại biên: viêm, phù nề, chèn ép, đau  thì rõ ràng châm cứu đã đáp ứng được yêu  cầu điều trị bệnh liệt mặt.

Xu hướng chung, theo NIH liệt kê các biện pháp điều trị LMNB bằng liệu pháp hỗ trợ như: vật lý trị liệu, xoa bóp, kích thích điện, vitamin nhóm B và có Châm cứu.

Hãng thông tấn Reuters cho biết Liệu pháp châm cứu tích cực giúp hồi phục liệt mặt ngoại biên. Những nhà nghiên cứu Đại học Harvard cũng ủng hộ quan điểm châm cứu trị liệt mặt vì họ đồng ý rằng khi kim châm sẽ giúp tăng tuần hoàn máu mang theo theo dưỡng chất, chống viêm tại chỗ vùng cơ mặt bị liệt nên giúp phục hồi được bệnh liệt mặt.

Qua trải nghiệm thực tế của nhiều thầy thuốc YHCT ở Việt Nam cho thấy sử dụng châm hoặc cứu càng sớm tỉ lệ phục hồi càng nhanh. Cho dù chưa có những đề tài nghiên cứu về chữa trị liệt dây thần kinh mặt bằng châm cứu được thiết kế tốt, đạt quy chuẩn cũng như  chưa có sự đồng thuận cao giữa các thầy thuốc YHCT và YHHĐ trong điều trị bệnh liệt mặt ngoại biên, nhưng hiện tại sử dụng châm cứu trong điều trị liệt mặt đang được cộng đồng chấp nhận vì mong muốn là bệnh được phục hồi càng sớm càng tốt và rõ ràng nếu được châm cứu ở những thầy thuốc có đào tạo tốt sẽ đạt hiệu quả cao và rất hiếm khi gây biến chứng hay ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ người bệnh.

Người LMNB cần chăm sóc gì?

–         Giữ vệ sinh mắt: dùng chất làm trơn, nước mắt nhân tạo, nước muối sinh lý…để tránh khô mắt và hạn chế bội nhiễm mắt,

–         Vệ sinh răng miệng: đặc biệt người cao tuổi và trẻ em, do không giữ được nước trong miệng nên lười chải răng, thức ăn ứ đọng bên má liệt…nên dễ bị viêm răng miệng, ảnh hưởng đến sức đề kháng của cơ thể gây chậm phục hồi bệnh nói chung,
–         Cần giải thích, động viên người bệnh an tâm để có sự phối hợp và tuân thủ điều trị của thầy thuốc, tỉ lệ lành bệnh sẽ cao hơn.

Bs Trần Văn Năm – Nguyên phó viện trưởng Viện Y Dược học dân tộc thành phố Hồ Chí Minh.

Khai giảng lớp YOGA cơ bản và trung cấp tại Viện Y Dược Học Dân Tộc

Yoga giúp cho cơ thể dẻo dai, tăng sức đề kháng, ngăn ngừa bệnh tật, đồng thời giảm stress, mang tới tinh thần lạc quan và thanh bình. Tập các bài tập yoga, hay còn gọi là asanas, đều đặn giúp giảm dần và trị hết những chứng bệnh thường gặp như đau lưng, thấp khớp, đau bao tử, nhức mỏi, mỏi mệt, mất ngủ, nhức đầu, thần kinh và tim mạch, v.v.  Các tư thế “thư giãn”, “xác chết” và “hoa sen” thường xuyên giúp cho tinh thần yêu đời, ham thích phục vụ và tâm trí an lạc, bình an.

LỚP YOGA CƠ BẢN VÀ TRUNG CẤP TẠI VIỆN YDHDT
273 Nguyễn Văn Trỗi, Q. Phú Nhuận, TP. HCM
 LỊCH HỌC THÁNG 11/2015
 
Lớp
Ngày bắt đầu
Giờ học
Thời khóa biểu
Phòng tập
Học phí
Lưu ý
bản
04/11/2015
18:00 – 19:30
thứ tư hàng tuần
Hội trường, lầu 2
400.000 đồng/8 buổi
Hỏi phòng Dịch Vụ Ngoài Giờ  để được hướng dẫn lên phòng tập
Trung cấp
02/11/2015
18:00 – 19:30
thứ hai hàng tuần
Hội trường, lầu 2
400.000 đồng/8 buổi
Đối tượng: nam, nữ, từ 18 tuổi đến 70-80 tuổi, chưa biết về yoga, hoặc biết rồi nhưng muốn có một trình độ cơ bản về yoga và chương trình tập luyện tập nhà riêng cho mình, tốt cho sức khỏe và cả tâm trí.
Đăng ký, đóng tiền tại phòng Dịch Vụ Ngoài Giờ – cạnh Khoa Khám Bệnh – (làm việc từ 16:30 đến 19:00 thứ hai tới thứ sáu, thứ bảy từ 7h30 – 11h30. Mời sắp xếp thời gian để vô học ngay vào ngày đầu, chuẩn bị quần áo thun thể thao (có phòng thay đồ trên lầu) và thảm yoga (có thể mua sẵn hoặc mua tại lớp – 250.000/bộ đồ yova, 180.000/thảm yoga đã có túi). Chi tiết xin liên hệ: 0903.004984 (Cô Khanh) hoặc 083.820.1196 (Cô Tám).
Lớp yoga có 3 trình độ cơ bản, trung cấp và nâng cao (rơi vào những ngày khác nhau, tùy trình độ). Mỗi lớp gồm 8 buổi học (2 tháng), tuần 1 buổi. Học viên đến lớp tập để ôn tư thế cũ và học tư thế mới để về tự tập ở nhà những ngày còn lại trong tuần. Ngoài các động tác, học viên còn được hướng dẫn thực hành những thói quen tốt trong sinh hoạt và nghe những đề tài nâng cao tâm trí.

Đông y điều trị chứng khó tiêu hoá do rối loạn dạ dày – ruột

Biểu hiện rối loạn dạ dày – ruột (Gastrointestinal disorders) thường gặp nhất là chứng khó tiêu dành để mô tả tình trạng căng tức cấp hoặc mạn tính, tái diễn nhiều lần hay cảm giác khó chịu vùng thượng vị (nơi lõm đầu dưới xương ức), tức hoặc nóng thượng vị, no nhanh, đầy chướng sau khi ăn  (định nghĩa theo Uỷ Ban Quốc Tế của những nhà khảo sát lâm sàng, Rome III committee). Cần phân biệt chứng khó tiêu với ợ nóng, vì chứng ợ nóng (heartburn) khi xuất hiện chủ yếu đó chính là biểu hiện của chứng trào ngược dạ dày thực quản.

Chứng khó tiêu chiếm 25% dân số người lớn và khoảng 3% trong số người bệnh đến khám tại các cơ sở chăm sóc y tế. Chỉ riêng chứng khó tiêu không là dấu hiệu đặc trưng của một bệnh nào, nhưng khi khó tiêu kéo dài và xuất hiện cùng một lúc với các dấu hiệu khác như: chán ăn, thay đổi vị giác, chướng bụng, buồn nôn, nôn, sụt cân, đau vùng bụng, thay đổi thói quen đi tiêu hay tính chất của phân… phải cần tìm nguyên nhân để chữa bệnh. Các nguyên nhân có thể gặp chứng khó tiêu hoá do bệnh lý của dạ dày như sau:

2

1. Nguyên nhân của chứng khó tiêu:

– Không dung nạp với thức ăn hoặc thuốc trị bệnh: khó tiêu thoáng qua hoặc cấp có thể do ăn quá no, quá nhanh, thức ăn chứa lượng dầu béo cao, căng thẳng khi ăn, hay uống nhiều rượu, cà phê. Các thuốc uống điều trị bệnh có thể gây chứng khó tiêu gồm: thuốc giảm đau không chứa steroid (NSAIDs), vài loại kháng sinh, thuốc trị bệnh tiểu đường (Metformin, a-glucosidase, kháng thụ thể GLP-1), thuốc hạ huyết áp (ức chế men chuyển, ức chế b), thuốc hạ lipid máu (fibrates), thuốc trị bệnh tâm – thần kinh, thuốc chống động kinh…

– Khó tiêu chức năng: đây là dạng thường gặp nhất của chứng khó tiêu mạn tính. Có đến 2/3 người bệnh không tìm gặp tổn thương thực thể cho dù thăm khám kỹ lưỡng. Cơ chế gây chứng khó tiêu này phức tạp có thể do mất sự đồng bộ trong dẫn truyền thần kinh, stress…mặc dù tính chất không nguy hiểm nhưng khó chữa khỏi hoàn toàn.

– Rối loạn chức năng khoang dạ dày – ruột: có khoảng từ 5 – 15 % bệnh loét dạ dày có triệu chứng khó tiêu, bệnh trào ngược dạ dày – thực quản chiếm 20% người bị khó tiêu, ngay cả họ không bị ợ nóng nặng. Những nguyên nhân khác bao gồm giảm nhu động dạ dày (đặc biệt gặp ở người bệnh đái tháo đường), không dung nạp lactose, hay tình trạng kém hấp thu, và nhiễm ký sinh trùng (Giardia, Strongyloides).

– Nhiễm Helicobacter pylori (HP): mặc dù nhiễm H.pylori mạn tính là nguyên nhân thường gặp nhất của loét dạ dày, nhưng hiếm khi gây chứng khó tiêu khi không có loét dạ dày. Tần suất của viêm dạ dày mạn tính  nhiễm H. pylori có bị khó tiêu mà không có loét từ 20 – 50% dân số.

– Bệnh tuỵ tạng: ung thư tuỵ và viêm tuỵ mạn tính có thể bị chứng khó tiêu.

– Bệnh đường mật: cơn khởi phát đột ngột của đau thượng vị hay ¼ trên bên phải do bởi sỏi túi mật hay đường mật gây viêm tắc có thể kèm chứng khó tiêu.

– Những tình trạng bệnh lý khác: đái tháo đường, bệnh tuyến giáp, bệnh thận mạn tính, thiếu máu cơ tim, bệnh ác tính trong ổ bụng, xoắn dạ dày, thoát vị cận thực quản, có thai…đôi khi bị chứng khó tiêu.

2. Điều trị chứng khó tiêu bằng Y dược cổ truyền (YDCT):

Vì có sự liên hệ chặt chẽ giữa các cơ quan – bộ phận bên trong cơ thể và cơ thể với môi trường, nên phải điều trị với một biện pháp tổng hợp từ: kiểm soát, ổn định yếu tố tâm – thần kinh; thực hiện thói quen ăn uống hợp lý: ăn chậm nhai kỹ, ít chất béo, thông báo với bác sĩ điều trị để điều chỉnh một số thuốc có thể gây chứng chậm tiêu, hạn chế cà phê – rượu bia, bỏ thuốc lá. Riêng thuốc đông dược điều trị chứng chậm tiêu tuỳ theo tình trạng hiện có của cơ thể người bệnh, như sau:

A. Nguyên tắc sử dụng thuốc: 

– Tái lập cân bằng bài tiết dịch tiêu hoá (chất nhày, men tiêu hoá, dịch tuỵ – mật, acid dạ dày) đông y sử dụng nhóm thuốcTiêu đạo (Eupepsia) gồm các dược liệu: Sơn tra, Mạch nha, Thần khúc, dịch mật động vật, Kê nội kim, Nghệ…
– Điều hoà nhu động hoặc chống co thắt ống tiêu hoá (qua cơ chế thần kinh hoặc tại chỗ của dạ dày – ruột) đông y sử dụng thuốc Thông hoạt (activator, antispasmodic) như: Sa nhân, Hương phụ chế, Hậu phác, Chỉ thực, Chỉ xác, Uất kim…
– Chống vi khuẩn, ký sinh trùng: gồm các dược liệu có tác dụng thanh nhiệt, giải độc như: Hoàng liên, Hoàng bá, Mơ tam thể, Tỏi, Kim ngân hoa, Chè dây, Bồ công anh, Bạc hà…

B. Các thể bệnh thường gặp và bài thuốc sử dụng:

– Khó tiêu và  căng tức hay đau thượng vị lan dưới hạ sườn, bứt rứt, cáu gắt, uống nước lạnh – mát dễ chịu, khó ngủ, ợ chua – nóng, rêu lưỡi vàng, lưỡi nứt, tiêu bón…(đông y gọi là Chứng can khí uất, liên quan đến chứng thừa acid dạ dày): bài thuốc dạng sắc gồm: Sài hồ, Cúc tần, Chi tử: 8 – 10g; Táo nhân, Viễn chí: 6 – 8 g; Ô dước, Hậu phác, lá Muồng trâu, Uất kim: 4 – 6g; Bồ công anh, Rau má: 12 – 15g. Các chế phẩm tên thương mại: Tiêu dao đan chi, Tiêu dao – f.
– Khó tiêu và sợ lạnh, buồn nôn, đau âm ỉ thượng vị, lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, tiêu lỏng hay phân nát, ăn uống thức ăn ấm dễ chịu…(đông y gọi là Chứng tỳ vị hư hàn, liên quan đến chứng thiếu acid dạ dày), bài thuốc dạng sắc gồm: Sa nhân, Mộc hương, Hương phụ chế 6 – 8 g; Đảng sâm, Vỏ quýt, củ Sả, Bạch truật 8 – 10g; Chỉ thực, Bán hạ chế, Thuỷ xương bồ, Mai mực 6 – 8g. Chế phẩm tên thương mại: Hương sa lục quân, Bình vị tán,…
– Các thể bệnh khác sẽ được bổ sung hoặc thay đổi tuỳ vào biểu hiện đi kèm như: tăng tiết nước bọt, chán ăn, khô miệng, khát nước, đau bụng nhiều, ợ nóng nhiều, khó ngủ…do thầy thuốc quyết định điều chỉnh thuốc phù hợp.

C. Những điều cần lưu ý: 

Vì chứng khó tiêu hoá có liên quan đến rất nhiều loại bệnh từ thực quản đến ruột và các cơ quan như gan mật, tuỵ, nên nếu sử dụng thuốc vài tuần không thuyên giảm người bệnh cần được thực hiện thêm các kỹ thuật cận lâm sàng: nội soi dạ dày, siêu âm, xét nghiệm máu – phân, đôi khi cần chụp cắt lớp, cộng hưởng từ…đặc biệt ở người cao tuổi và gầy nhanh nên sớm đến các cơ sở khám bệnh chuyên khoa để có biện pháp điều trị thích hợp nhất.
Gần đây, một loại bệnh liên quan đến chứng khó tiêu đang rất phổ biến gây nhiều lo lắng vì phải điều trị kéo dài, dễ tái nhiễm và có một số phản ứng ngoại ý khi uống thuốc là viêm dạ dày có nhiễm Helicobacter pylori . Đây là bệnh cần quan tâm nhưng không nên quá lo lắng, sơ hãi. Thực tế, vi khuẫn HP đa số bị diệt bởi kết hợp một số kháng sinh với nhau và chỉ một số nhỏ người bệnh bị kháng thuốc hay dị ứng thuốc.. Cần tuân thủ uống thuốc đủ liều và thực hiện vệ sinh ăn uống, rửa tay, làm sạch ly chén khi dùng chung.
Hiện nay, các thầy thuốc YDCT trong và ngoài nước đã và đang nghiên cứu nhằm tìm các dược liệu có thể hỗ trợ kìm hoặc diệt vi khuẩn HP kháng thuốc kháng sinh hay thường xuyên tái nhiễm. Các dược liệu như: Tỏi, Trà xanh, Nghệ, Chè dây, Riềng, rau Bạc hà (có tinh dầu menthol), Quế…được ghi nhận có tác dụng diệt HP và hứa hẹn có thêm vũ khí mới giúp chữa trị loại vi khuẩn này.

Bs Trần Văn Năm – Nguyên phó viện trưởng Viện Y Dược học dân tộc thành phố hồ chí minh.

Liệu pháp thiên nhiên hỗ trợ điều trị bệnh vảy nến

Bệnh vảy nến là một bệnh tự miễn (do hệ miễn dịch tăng hoạt động và tấn công vào các tổ chức bình thường của cơ thể, chủ yếu là da) mạn tính chiếm khoảng 3 – 4% dân số của Mỹ, bệnh chủ yếu xảy ra ở người lớn, trẻ con có tỉ lệ bệnh thấp (JAMA Dermatology). Theo Sở y tế quốc gia thuộc Vương quốc Anh, khoảng 2% dân Anh bị bệnh vảy nến, tuổi thường gặp 11 đến 45 tuổi, tuy nhiên các lứa tuổi khác cũng có thể mắc bệnh.

1

1. Biểu hiện của bệnh: 

– Da xuất hiện các mảng đỏ, dày, sần sùi, tróc vảy. Vị trí thường gặp là nơi mặt duỗi của các khớp (khuỷu, gối), da đầu, mặt, tai, thắt lưng, lòng bàn tay, bàn chân, các nếp gấp ở bộ phận sinh dục, mông và móng tay – chân.

– Khoảng 10 – 20% người bệnh vảy nến có nguy cơ bị viêm khớp vảy nến.

– Bệnh vảy nến không lây, nhưng về mặt xã hội người bệnh thường bị mặc cảm trong giao tiếp, quan hệ xã hội, đặc biệt đối với thể bệnh nặng và có sự liên quan đến chứng trầm cảm ở một số người bệnh.

– Gần đây, các chuyên gia còn cho biết người bệnh vảy nến có nguy cơ mắc thêm bệnh tim mạch, đái tháo đường.

2. Nguyên nhân bệnh:

– Nguyên nhân chính xác của bệnh không được biết.

– Hầu hết các chuyên gia tin rằng có yếu tố di truyền và bị thúc đẩy bởi uống nhiều rượu, hút thuốc lá quá nhiều, stress tinh thần, và sau khi ngưng đột ngột thuốc corticoid dùng đường toàn thân.

3. Phân loại bệnh vảy nến:

Tuỳ theo biểu hiện của bệnh mà chia ra các thể: vảy nến tróc vảy (chiếm 80 – 90%, da bong vảy từng mảng trắng), vảy nến nếp gấp (đặc biệt ở vùng nách, bộ phận sinh dục, nếp dưới vù, nếp mông…), vảy nến bóng nước, vảy nến mụn mủ, vảy nến đỏ da…

4. Yếu tố nguy cơ (yếu tố gây khởi hát bệnh):

Tiền căn gia đình, theo thống kê có khoảng 30% người bệnh có thành viên trong gia đình bị vảy nến (có 3 gen liên quan: SLC9A3R1, NAT9 và RAPTOR), Bệnh nhân HIV, nhiễm khuẩn tái phát nhiều lần (viêm họng do streptococcus), stress tâm thần kinh, thừa cân – béo phì, hút thuốc lá kéo dài, một số thuốc tân dược trị bệnh tim mạch (thuốc ức chế bêta, ức chế men chuyển), thuốc chống sốt rét, sử dụng liều cao và ngưng đột ngột chất corticoids có thể gây bệnh vảy nến…

5. Chẩn đoán bệnh:

– Bệnh chủ yếu được thầy thuốc chẩn đoán dựa vào biểu hiện bên ngoài và diễn tiến của bệnh, hiện không có một xét nghiệm đặc hiệu nào sử dụng cho chẩn đoán, một số nước có dùng kỹ thuật sinh thiết da.

– Một số xét nghiệm máu nhận biết diễn tiến nặng của quá trình viêm: tốc độ máu lắng, C-RP, x-quang khớp (viêm khớp vảy nến)…

6. Bệnh vảy nến điều trị như thế nào:

Hiện nay, y học chưa thể điều trị khỏi hẳn bệnh vảy nến. Tuy nhiên, mục tiêu điều trị nhằm: hạn chế quá trình viêm, chống nhiễm trùng (nếu có), giảm bong tróc vảy, và làm mềm da.

Điều trị theo quy ước của Y học hiện đại: chọn thuốc dựa vào phân loại bệnh, mức độ nặng và vùng da nào của cơ thể bị ảnh hưởng. Các thuốc được sử dụng phối hợp:

  • Thuốc bôi tại chỗ, 
  • Quang trị liệu (phototherapy), 
  • Đường uống (ức chế miễn dịch, kháng viêm, kháng sinh, mềm da…) 
  • Đường tiêm (thuốc sinh học, biologic therapy).

7. Điều trị bệnh vảy nến bằng liệu pháp thiên nhiên:

Vì bệnh vảy nến là một biểu hiện ngoài da của một bệnh toàn thân, nên điều trị cần một liệu pháp tổng hợp từ sử dụng thuốc và không dùng thuốc:
Chế độ ăn: hạn chế thức ăn gây tăng quá trình viêm mạn tính như: thức ăn quá ngọt, thịt đỏ, các loại mắm, mỡ động vật, thức ăn chế biến cầu kỳ. Tăng cường rau xanh, củ, trái cây; uống đủ nước tinh khiết hoặc nước chế biến từ một số loại dược liệu quanh nhà: Rễ tranh, Mã đề, Râu Ngô, Rau má…có thể bổ sung vitamin và nguyên tố vi lượng: acid folic (1mg/ngày), Kẻm (25mg/ngày), Selen, Omega – 3…
Tập thể dục vừa sức: Dưỡng sinh, Yoga, Thái cực quyền, Thiền định, ngủ đủ giờ, kiểm soát stress… nhằm tăng sức đề kháng,
Sử dụng thuốc: tuỳ giai đoạn, thể bệnh và tổng trạng của người bệnh sẽ chọn thuốc phù hợp:
a. Thể bệnh với da đỏ nhiều (tăng quá trình viêm, đông y gọi là nhiệt) mụn nước, rỉ dịch  (tăng xuất tiết, đông y gọi là thấp), ngứa (dị ứng, chứng phong của đông y):

  • Đỏ da, ngứa, rỉ dịch: Kim ngân hoa, Bồ công anh, Sài đất, Diệp hạ châu (liều từ 12 – 15g), Hoàng liên, Hoàng bá, Hoàng cầm (8 – 12g), 
  • Ngứa: Cam thảo (6g) ,  Phòng phòng, Sài hồ,  (10 – 12g) , Kinh giới, Tía tô, Bạch linh, Bạch chỉ (12 – 15g), 
  • Mụn nước, rỉ dịch: Bạch phục linh, Rễ tranh, Râu mèo (từ 15 – 20g),Ngưu tất (12g),

Chọn mỗi nhóm từ 1 đến 2 vị dược liệu trên, nấu với nước uống.
b. Thể bệnh với đỏ da, ngứa, da khô, tróc vảy (thiếu nước, chứng táo):

  • Thuốc trị đỏ da và ngứa như trên thêm vị thuốc trị khô da, tróc vảy dưới đây:
  • Da khô tróc vảy trắng từng mảng: Huyền sâm, Sinh địa, Mạch môn, Sa sâm (12 – 15g), Ngũ vị tử (6 – 8g).

c. Thể bệnh lâu ngày, cơ thể suy nhược: Hà thủ ô đỏ, Hoàng kỳ, Nhân sâm, Đảng âm, Đinh lăng, Bạch truật, Đương quy…
Tuỳ tình trạng đáp ứng thuốc của người bệnh, YHCT lưu ý sử dụng thêm các thuốc thúc đẩy tuần hoàn (Hoạt huyết: Đan sâm, Kê huyết đằng, Cỏ mực, Xuyên khung) hoặc thuốc ổn định tâm thần kinh (Lạc tiên, Tâm sen, Thảo quyết minh, Bình vôi)…
d. Viêm khớp vảy nến: Độc hoạt, Khương hoạt, Tục đoạn, Cỏ sướt, Tang ký sinh (10 – 15g) …

8. Dự phòng: 

Đây là bệnh có nguyên nhân chưa xác định và là bệnh tự miễn nên dự phòng rất khó khăn. Tuy nhiên, cần tránh các yếu tố nguy cơ biết được như:
– Điều chỉnh lối sống hợp lý: không hút thuốc lá, hạn chế rượu bia, ăn uống hợp lý (tăng cường rau xanh, trái cây, uống đủ nước), thường xuyên tập thể dục, hạn chế tác hại của môi trường (ô nhiễm không khí, hoá độc hại, mỹ phẩm),
– Sử dụng một số nước uống từ cây rau làm thuốc có tác dụng chống gốc tự do (chất làm tổn hại tế bào) như: nước xay Rau má, Bơ, Cà rốt, Táo…
– Rèn luyện tinh thần, thể lực, kiểm soát stress…
– Sử dụng thuốc khi có ý kiến của thầy thuốc.

Lưu ý: 

– Gần đây, có nhiều thông tin trên mạng giới thiệu một số cây thuốc Nam có tác dụng trị bệnh vảy nến như: ăn lá Hoàn ngọc, lá Lược vàng… có hiệu quả đối với vài người. Tuy nhiên, cơ thể mỗi người mỗi khác, thể bệnh này cần thuốc này, thuốc khác cho thể bệnh khác. Không thể chỉ có một cây thuốc hoặc một bài thuốc cố định có hiệu quả cho tất cả mọi người.
– Khi quyết định dùng thuốc cần tham khảo ý kiến thầy thuốc chuyên khoa và lắng nghe đáp ứng của cơ thể.
– Đối với người bệnh vảy nến luôn cần sự động viên và chia sẻ của người thân, bạn bè. Bản thân người bệnh cần kiên trì, lựa chọn phương pháp điều trị khoa học, hạn chế buồn chán, bi quan vì “trạng thái tâm lý tiêu cực sẽ luôn gây nặng thêm tình trạng bệnh hiện có”.

Bs Trần Văn Năm – Nguyên phó viện trưởng Viện Y Dược học dân tộc thành phố hồ chí minh.

Đơn vị liên kết

thoi gian lam viec







r>

BÀI MỚI