- Việc ăn uống quá nhiều chất bổ dưỡng có thể khiến gan phải làm việc quá sức để thanh lọc và giải độc cho cơ thể. Ảnh: foodevents
Ăn quá nhiều chất bổ sẽ hại gan

Bột Nhuận Tràng – Trị Hiệu Quả Bệnh Táo Bón
Bệnh táo bón
Táo bón có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, từ trẻ sơ sinh đến người cao tuổi. Tỷ lệ mắc táo bón tăng theo tuổi, với 30-40% gặp ở những người trên 65 tuổi.
Bình thường số lần đại tiện từ một đến hai lần trong một ngày, phân mềm đóng thành khuôn, lượng phân từ 200g đến 400g. Khi bị táo bón thì quá hai ngày mới đại tiện, mỗi lần đại tiện rất khó hoặc lượng phân mỗi lần ra ít hơn bình thường hoặc khô cứng.
Dấu hiệu nhận biết bệnh táo bón
Đi đại tiện khó khăn, nhiều ngày mới đi một lần, mỗi lần đại tiện phải rặn nhiều, phải vận dụng nhiều cơ thành bụng và cơ hoành để tống phân ra ngoài.
Phân rắn thành cục, mật độ cứng có thể dính theo máu tươi do cọ xát vào niêm mạc hậu môn, có khi dính theo những chất nhầy của đại tràng, trực tràng.
Nếu táo bón kéo dài có thể gây nên những rối loạn toàn thân như nhức đầu, đánh trống ngực, thay đổi tính nết (hay cáu gắt…).
Điều trị bệnh táo bón
Các biện pháp không dùng thuốc:
Ăn nhiều chất xơ hơn (rau cải, hoa quả), uống nhiều nước (1,5-2 lít nước/ngày, uống các loại nước hoa quả như nước cam, nước chanh).
Tái huấn luyện phản xạ đại tiện: Tập đi đại tiện đúng giờ cố định.
Chống nếp sinh hoạt tĩnh tại bằng cách tập thể dục, thể thao.
Hạn chế bia, rượu, thuốc lá…
Dùng thuốc nhuận tràng:
Ngoài các biện pháp không dùng thuốc, để điều trị ngay chứng bệnh, có thể dùng các loại thuốc nhuận tràng.
Thuốc Bột Nhuận Tràng của Viện Y Dược Học Dân Tộc đã được sản xuất và dùng điều trị hiệu quả cho bệnh nhân trong nhiều năm qua tại Viện. Thuốc Bột Nhuận Tràng được sản xuất hoàn toàn từ thảo dược thiên nhiên như Chuối xiêm, Lá muồng trâu, Trần bì…có tác dụng điều trị hiệu quả bệnh táo bón.

Công dụng:
– Làm mềm và tăng khối lượng phân, kích thích, điều hòa và tăng cường nhu động ruột, giúp ruột bài tiết tốt.
– Nhuận trường và xổ.
– Trị chứng táo bón do cơ thể nóng (nội nhiệt) và nhu động ruột giảm.
Cách dùng:
Nhuận trường: người lớn mỗi ngày uống 1/2 gói 12g, trẻ 7-15 tuổi mỗi ngày uống 1/4 gói 12g, trẻ 1-6 tuổi mỗi ngày uống 1/6 gói 12g, trẻ sơ sinh: theo chỉ dẫn của thầy thuốc. Pha thêm 1 ít nước và khuấy đều cho dễ uống.
Tẩy xổ: uống gấp đôi liều trên. Uống với nhiều nước.
Vì sao châm cứu trị được bệnh?
Châm cứu là phương pháp điều trị bệnh không thể thiếu được của y dược cổ truyền (YDCT) phương đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Tại Việt Nam, từ ngàn xưa tổ tiên ta dùng châm cứu rộng rãi trong phòng – trị bệnh cho người dân. Hiện nay, không chỉ người Việt ưa chuộng cách điều trị không bằng thuốc này mà cả các khách du lịch hoặc chuyên gia ngoại quốc đến Việt Nam. Điều đó chứng tỏ châm cứu có tác dụng trị bệnh thật sự.
(BS Trần Văn Năm – Viện Y Dược Học Dân Tộc)

Châm cứu là tên gọi của hai hình thức khác nhau:
– Châm: dùng kim xuyên qua da của một vùng cơ thể nhất định, gọi là huyệt.
– Cứu: dùng là khô của cây Ngãi cứu (Artemisia vulgaris L.) đốt lên để hơ nóng trên huyệt.
Có nhiều loại hình châm cứu
Hiện nay có nhiều trường phái châm cứu được sử dụng phổ biến như:
– Thể châm (châm các các huyệt trên cơ thể)
– Nhĩ châm (châm các huyệt trên loa tai)
– Diện châm (châm hoặc ấn các huyệt trên mặt)
– Túc châm, thủ châm, tỵ châm,…
– Châm tê (phát triển mạnh ở các Tỉnh – Thành miền Bắc VN), trường châm, mãng châm, chôn chỉ…
Mỗi loại châm cứu đều có một hiệu quả nhất định trên một số dạng bệnh lý khác nhau.
Theo YHCT: bệnh tật phát sinh do sự mất cân bằng giữa 2 yếu tố “âm” và “dương” trong cơ thể:
– Âm: nền tảng vật chất, thụ động, tính mát – lạnh…
– Dương: năng lực hoạt động, chủ động, tính ấm – nóng…
Khi âm và dương mất cân bằng, cơ thể sẽ bị giảm khả năng chống đỡ với bệnh tật, kinh – mạch (hệ thống các đường dẫn năng lượng, chất dinh dưỡng, dịch thể nối liền giữa các cơ quan và bộ phận của cơ thể với nhau) bị tắc nghẽn và bệnh sẽ phát sinh.
Châm cứu giúp phục hồi lại sự tuần hoàn tốt của hệ kinh – mạch và tăng khả năng phòng vệ của cơ thể (sức đề kháng) nên có thể phòng và trị được bệnh.
Theo YHHĐ: qua nghiên cứu trên thực nghiệm và trên người, một số kết quả ghi nhận được:
– Khi đo điện trở vùng da trên huyệt và đường kinh, cho trị số điện trở thấp hơn vùng da không phải là huyệt và đường kinh. Ứng dụng tính chất này trong chẩn đoán bệnh và thủ thuật tác động điều trị.
– Khi châm cứu cơ thể thay đổi nồng độ của của các chất dẫn truyền thần kinh như: morphine nội sinh, cũng như các nội tiết tố: estrogen, testosterone, cortisol…tăng các tế bào bạch cầu đa nhân, tế bào lympho…
– Châm cứu giúp an thần, giãn cơ, tăng ngưỡng đau.
Châm cứu được áp dụng điều trị các bệnh
– Giảm đau trong các loại bệnh lý như: thoái hoá khớp, bệnh đĩa đệm cột sống mức độ nhẹ, đau sau chấn thương, đau đầu migrain, đau do co thắt cơ trơn…
– Phục hồi liệt: di chứng tai biến mạch máu não, sau chấn thương, liệt thần kinh số VII ngoại biên…
– Rối loạn giấc ngủ, căng thẳng (stress).
– Tăng cường dinh dưỡng mô, cơ, da và tổ chức dưới da (dùng trong thẩm mỹ).
– Tăng sức đề kháng, hỗ trợ cắt cơn thiếu thuốc (thuốc lá, thuốc gây nghiện…).
Để châm cứu có hiệu quả tốt nhất, lưu ý:
– Người Thầy thuốc: được đào tạo tốt, tự tin, có sức khỏe tốt, tập trung khi thao tác, bảo đảm nguyên tắc vô trùng y dụng cụ.
– Đối với Người bệnh: tin tưởng, tâm trạng thoải mái, không quá lo sợ, không ăn quá no, quá đói.
Những trường hợp cần cẩn thận hoặc chống chỉ định sử dụng châm cứu
– Người bệnh căng thẳng, sợ kim.
– Tránh một số huyệt nhạy cảm khi người bệnh có thai.
– Da chai, sẹo hoặc đang viêm nhiễm.
– Tránh các vùng có mạch máu lớn, bệnh lý rối loạn đông máu, hoặc đang dùng thuốc kháng đông máu.
– Người bệnh không hợp tác (kết quả sẽ kém).
Châm cứu có tác dụng tốt trong các trường hợp bệnh lý có căn nguyên rối loạn chức năng, các bệnh lý gây đau do nguyên thần kinh, co thắt cơ vân – cơ trơn, do liệt vận động, một số bệnh lý viêm không do vi trùng mạn tính.
(theo t4ghcm.org.vn )
Châm cứu chữa bệnh béo phì
Phương pháp châm cứu của y học cổ truyền có thể giúp giảm cân và thon gọn vòng bụng. 25% người dân TP.HCM bị thừa cân, béo phì. Đây là thống kê mới nhất của Trung tâm Dinh dưỡng TP.HCM.
Theo thống kê tại phòng khám thừa cân, béo phì của Viện Y dược học Dân tộc TP.HCM hằng ngày có khoảng 50-70 người đến điều trị. Trong đó, hơn 80% là phụ nữ sau khi sinh con.
Bị nhiều bệnh do thừa cân, béo phì
Chị NTT, 38 tuổi, nặng 81 kg, ở quận Tân Phú, sau khi sinh con cơ thể tăng cân vùn vụt, vòng bụng, vùng mông to ra rất mất thẩm mỹ. Lo sợ với thân hình “quá khổ” nên chị phải đi khám bệnh. Kết quả xét nghiệm cho thấy chị bị tiểu đường, tăng mỡ trong máu, huyết áp tăng,… Chị T. quyết định tìm đến Viện Y dược học Dân tộc TP.HCM để bắt đầu hành trình giảm cân lấy lại vóc dáng và chữa bệnh.
Theo BS Trần Thị Hương Lan – Viện Y dược học Dân tộc TP.HCM, tâm lý mọi người khi điều trị đều mong muốn giảm đi vài kg nhưng họ không biết đang mắc các bệnh lý do thừa cân, béo phì gây ra. Vì vậy ngoài việc điều trị béo phì, các bác sĩ còn tư vấn cho bệnh nhân những biến chứng do béo phì gây nên. Từ đó người bệnh mới có ý chí để điều trị lâu dài.
“Thông thường người thừa cân, béo phì đến điều trị thường di chuyển chậm chạp, tiếp thu kém, già trước tuổi, ngại giao tiếp, đau nhức khớp, loãng xương,… Nặng hơn có thể bị nhồi máu cơ tim, cao huyết áp, đột quỵ, tiểu đường, trĩ, thiểu năng sinh dục, rối loạn kinh nguyệt (ở phụ nữ),… Nếu không điều trị có thể dẫn đến ung thư vú, gan, mật, bệnh toàn thân và tử vong” – BS Hương Lan cho biết.

BS. Trần Thị Hương Lan – Trưởng khoa Dưỡng sinh-VLTL-PHCN đang khám, điều trị cho 1 BN
Châm cứu làm giảm cảm giác thèm ăn
Ngoài các biện pháp điều trị thừa cân, béo phì thông thường, hiện nay Viện Y dược học Dân tộc TP.HCM còn áp dụng phương pháp châm cứu giúp người bệnh giảm cân, thu gọn vòng bụng. “Y học cổ truyền cho rằng bệnh béo phì là do tì vận trong cơ thể suy nhược, dẫn đến mất điều hòa chuyển hóa nước, mỡ tích trữ trong cơ thể gây ra. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi cũng phát hiện ở vùng bụng và vành tai có các huyệt đạo làm ức chế quá trình thèm ăn. Phương pháp châm cứu sẽ dùng kim đâm vào các huyệt đạo cho đến khi đắc khí. Khi đã đắc khí thì dùng máy điện châm dẫn khí. Đây là phương pháp kết hợp giữa thể châm (châm cứu trên cơ thể) và nhĩ châm (châm cứu ở tai) nhằm ức chế gien béo phì, khiến người bệnh giảm bớt cảm giác thèm ăn. Qua theo dõi các bệnh nhân điều trị tại đây sau bốn tuần châm cứu với thời gian 20 phút/ngày, cân nặng có thể giảm 2,16 kg, vòng eo giảm 3,37 cm” – BS Hương Lan giải thích.
Song song với việc châm cứu các bác sĩ sẽ cho bệnh nhân uống một số loại thuốc được chiết xuất từ thảo dược để kết hợp điều trị. Ngoài ra, các bác sĩ còn xây dựng một thực đơn nghiêm ngặt cùng chế độ vận động thể dục riêng biệt dành cho từng người bệnh. Bệnh nhân còn phải thay đổi các chế độ sinh hoạt như giảm thời gian ngủ, hạn chế các hoạt động ngồi một chỗ như: xem tivi, làm trên máy vi tính, chơi game,… Nếu tuân thủ tất cả các chỉ định của bác sĩ thì việc giảm cân mới đạt được hiệu quả mong muốn.
Theo BS Hương Lan, khó khăn của việc điều trị là bệnh nhân thường không thực hiện được các yêu cầu của bác sĩ nên thất bại. “Có bệnh nhân ban đầu điều trị giảm được vài cân nhưng lại “xả cổng” và ăn uống tự thưởng cho mình nên tăng cân nhiều hơn. Đôi khi họ đưa ra nhiều lý do như do làm việc văn phòng, bận tiếp khách… nên không thể nào tuân thủ chế độ ăn kiêng. Ngoài ra, một số bệnh nhân bỏ cuộc giữa chừng để tìm đến phương pháp điều trị khác khi không thấy hiệu quả họ quay lại điều trị. Chính điều này làm cho việc điều trị thừa cân, béo phì của bệnh nhân không đạt được hiệu quả như mong muốn.
Tai biến mạch máu não không chỉ là bệnh của người lớn tuổi

BỔ KHÍ THÔNG HUYẾT
– Điều trị chứng mệt mỏi, đau đầu, chóng mặt, suy giảm trí nhớ, kém tập trung, rối loạn giấc ngủ, tê mỏi tay chân, đau mỏi vai gáy do rối loạn tuần hoàn não.
– Phòng ngừa và hỗ trợ điều trị xơ vữa động mạch với các triệu chứng: đau thắt ngực, cơ hàm, lưng khi vận động và stress.
– Phòng ngừa tai biến mạch máu não và các di chứng tai biến như: liệt nhẹ, tay chân khó cử động, nói khó hoặc không nói được, miệng méo, lưỡi lệch.
(Nguồn BVP)
Tổ chức hội thảo : ” Các phương pháp chữa bệnh bằng y dược cổ truyền “




Học thuyết âm dương
1. Định nghĩa
Cách đây gần 3.000 năm, người xưa đã nhận thấy sự vật luôn luôn có mâu thuẫn nhưng thống nhất với nhau, không ngừng vận động, biến hoá để phát sinh, phát triển và tiêu vong, gọi là Học thuyết âm dương.
Trong y học, Học thuyết âm dương quán triệt từ đầu đến cuối, từ đơn giản đến phức tạp trong suốt quá trình cấu tạo cơ thể, sinh lý, bệnh lý, chẩn đoán, và các phương pháp chữa bệnh y học cổ truyển (thuốc, châm cứu, xoa bóp, khí công v.v…)
2 Các quy luật cơ bản trong học thuyết âm dương
2.1 Âm dương đối lập với nhau
Đối lập là sự mâu thuẫn, chế ước và đấu tranh giữa hai mặt âm dương.
Thí dụ: ngày và đêm, nước và lửa, ức chế và hưng phấn v.v..
2.2. Âm dương hỗ căn
Hỗ căn là sự nương tựa lẫn nhau. Hai mặt âm dương tuy đối lập với nhau nhưng phải nương tựa lẫn nhau mới tồn tại được, mới có ý nghĩa. Cả hai mặt đều là tích cực của sự vật, không thể đơn độc phát sinh, phát triển được.
Thí dụ: Có đồng hoá mới có dị hoá, hay ngược lại nếu không có dị hoá thì quá trình đồng hoá không tiếp tục được. Có số âm mới có số dương. Hưng phấn và ức chế đều là quá trình tích cực của hoạt động vỏ não.
2.3. Âm dương tiêu trưởng
Tiêu là sự mất đi, trưởng là sự phát triển, nói lên sự vận động không ngừng sự chuyển hoá lẫn nhau giữa hai mặt âm dương.
Như khí hậu 4 mùa trong năm luôn thay đổi từ lạnh sang nóng, từ nóng sang lạnh, từ lạnh sang nóng là quá trình “âm tiêu dương trưởng” từ nóng sang lạnh là quá trình “dương tiêu âm trưởng” do đó có khí hậu mát, lạnh, ấm và nóng.
Sự vận động của hai mặt âm dương có tính chất giai đoạn, tới mức độ nào đó sẽ chuyển hoá sang nhau gọi là “dương cực sinh âm, âm cực sinh dương; hàn cực sinh nhiệt, nhiệt cực sinh hàn”.
Như trong quá trình phát triển của bệnh tật, bệnh thuộc phần dương (như sốt cao) có khi gây ảnh hưởng đến phần âm (như mất nước), hoặc bệnh ở phần âm (mất nước, mất điện giải) tới mức độ nào đó sẽ ảnh hưởng đến phần dương (như choáng, truỵ mạch gọi là thoát dương).
2.4. Âm dương bình hành
Hai mặt âm dương tuỵ đối lập, vận động không ngừng, nhưng luôn lặp lại được thế thăng bằng, thế quân bình giũa hai mặt.
Sự mất thăng bằng giữa hai mặt âm dương nói lên sự mâu thuẫn thống nhất, vận động và nương tựa lẫn nhau của vật chất.
Từ 4 quy luật trên, khi vận dụng trong y học người ta còn thấy một số phạm trù sau:
a) Sự tương đối và tuyệt đối của hai mặt âm dương:
Sự đối lập giữa hai mặt âm dương là tuyệt đối, nhưng trong điều kiện cụ thể nào đó có tính chất tương đối. Thí dụ: hàn thuộc âm đối lập với nhiệt thuộc dương, nhưng lương (là mát) thuộc âm đối lập với ôn (là ấm) thuộc dương. Trên lâm sàng tuy sốt (là nhiệt) thuộc dương, nếu sốt cao thuộc lý thuộc lý dùng thuốc hàn, sốt nhẹ thuộc biểu dùng thuốc mát (lương).
b) Trong âm có dương và trong dương có âm:
Âm và dương nương tựa lẫn nhau cùng tồn tại, có khi xen kẽ vào nhau trong sự phát triển. Như sự phân chia thời gian trong một ngày (24 giờ): ban ngày thuộc dương, từ 6 giờ sáng đến 12 giờ trưa là phần dương của dương. Từ 12 giờ đến 18 giờ là phần âm của dương; ban đêm thuộc âm, từ 18 giờ – 24 giờ là phần âm của âm từ 0 giờ đến 6 giờ là phần dương của âm.
Trên lâm sàng, khi cho thuốc làm ra mồ hôi để hạ sốt, cần chú ý tránh cho ra mồ hôi nhiều gây mất nước và điện giải, về triệu chứng thấy xuất hiện các chứng hư thực, hàn nhiệt lẫn lộn. Về cấu trúc của cơ thể, tạng thuộc âm như can, thận có can âm (can huyết), can dương (can khí), thận âm (thận thuỷ), thận dương (thận hoả) v.v…
c) Bản chât và hiện tượng:
Thông thường bản chất thường phù hợp với hiện tượng, khi chữa bệnh người ta chữa vào bản chất bệnh: như bệnh hàn dùng thuốc nhiệt, bệnh nhiệt dùng thuốc hàn.
Nhưng có lúc bản chất không phù hợp với hiện tượng gọi là sự “thật giả” (chân giả) trên lâm sàng, khi chẩn đoán phải xác định cho đúng bản chất để dùng thuốc chữa đúng nguyên nhân.
Thí dụ: bệnh truyền nhiễm gây sốt cao (chân nhiệt) do nhiễm độc gây truỵ mạch ngoại biên làm chân tay lạnh, ra mồ hôi lạnh (giả hàn) phải dùng thuốc mát để chữa bệnh.
– Bệnh ỉa chảy do lạnh (chân hàn) do mất nước, mất điện giải gây nhiễm độc thần kinh làm co giật, sốt (giả nhiệt) phải dùng các thuốc nóng, ấm để chữa nguyên nhân.
Các quy luật âm dương, các phạm trù của nó được biểu hiện bằng một hình tròn có hai hình cong chia diện tích làm hai phần bằng nhau: một phần là âm, một phần là dương. Trong phần âm có nhân dương và trong phần dương có nhân âm (xem hình ).

3. Ứng dụng trong y học
3.1. Về cấu tạo cơ thế và sinh lý
Âm: tạng, kinh âm, huyết, bụng, trong, dưới v.v…
Dương: phủ, kinh dương, khí, lưng, ngoài, trên v.v…
– Tạng thuộc âm, do tính chất trong âm có dương nên còn phân ra phế âm, phế khí; thận âm, thận dương; can huyết, can khí; tâm huyết, tâm khí. Phủ thuộc dương như vì trong dương có âm nên có vị âm và vị hoả…
– Vật chất dinh dưõng thuộc âm, cơ năng hoạt động thuộc dương.
3.2. Về quá trình phát sinh và phát triển của bệnh tật
a) Bệnh tật phát sinh ra do sự mất thăng bằng về âm dương trong cơ thể được biểu hiện bằng thiên thắng hay thiên suy:
– Thiên thắng: dương thắng gây chứng nhiệt: sốt, mạch nhanh, khát nước, táo, nước tiểu đỏ; âm thắng gây chứng hàn: người lạnh, tay chân lạnh, mạch trầm, ỉa lỏng nước tiểu trong v.v…
– Thiên suy: dương hư như các trường hợp não suy, hội chứng hưng phấn thần kinh giảm; âm hư: như mất nước, điện giải, hội chứng ức chế thần kinh giảm.
b) Trong quá trình phát triển của bệnh, tính chất của bênh còn chuyến hoá lẫn nhau giữa hai mặt âm dương. Bệnh ở phần dương ảnh hưỏng tới phần âm (dương thắng tắc âm bệnh). Thí dụ sốt cao kéo dài sẽ gây mất nước. Bệnh ở phần âm ảnh hưởng tới phần dương (âm thắng tắc dương bệnh). Thí dụ ỉa lỏng, nôn mửa kéo dài mất nước, điện giải làm nhiễm độc thần kinh, gây sốt, co giật thậm chí gây truỵ mạch (thoát dương)
c) Sự mất thăng bằng của âm dương gây ra những chứng bệnh ở những vị trí khác nhau của cơ thê tuỳ theo vị trí đó ở phần âm hay dương.
Dương thịnh sinh ngoại nhiệt: sốt, người và tay chân nóng, vì phần dương của cơ thể thuộc biểu, thuộc nhiệt.
Âm thịnh sinh nội hàn: ỉa chảy, người sợ lạnh, nước tiểu trong dài vì phần âm thuộc lý thuộc hàn.
Âm hư sinh nội nhiệt: như mất nước, tân dịch giảm gây chứng khát nước, họng khô, táo, nước tiểu đỏ v.v…
Dương hư sinh ngoại hàn: sợ lạnh, tay chân lạnh vì phần dương khí ở ngoài bị giảm sút.
3.3. Về chẩn đoán bệnh tật
a) Dựa vào 4 phương pháp khám bệnh: nhìn (vọng), nghe (văn), hỏi (vấn) sờ nắn, xem mạch (thiết) để khai thác các triệu chứng thuộc hàn hay nhiệt, hư hay thực của các tạng phủ kinh lạc.
b) Dựa vào 8 cương lĩnh để đánh giá vị trí nông sâu của bệnh, tính chất của bệnh, trạng thái người bệnh và xu thế chung nhất của bệnh tật (biểu lý, hư thực, hàn nhiệt và âm dương) trong đó âm và dương là 2 cương lĩnh tổng quát nhất gọi là tổng cương: thường bệnh ở biểu, thực, nhiệt thuộc dương; bệnh ở lý, hư, hàn thuộc âm.
c) Dựa vào tứ chẩn để khai thác triệu chứng và căn cứ vào bát cương bệnh tật được quy thành các hội chứng thiên thắng hay thiên suy về âm dương của các tạng phủ, kinh lạc v.v…
3.4. Về chữa bệnh và các phương pháp chữa bệnh
a)Chữa bệnh là điều hoà lại sự mất thăng bằng về âm dương của cơ thể tuỳ theo tình trạng hư thực, hàn, nhiệt của bệnh bằng các phương pháp khác nhau: thuốc, châm cứu, xoa bóp, khí công v.v…
b) Về thuốc được chia làm hai loại:
– Thuốc lạnh, mát (hàn, lương) thuộc âm để chữa bệnh nhiệt thuộc dương.
– Thuốc nóng, ấm (nhiệt, ôn) thuộc dương để chữa bệnh hàn thuộc âm.
c) Về châm cứu:
– Bệnh nhiệt dùng châm, bệnh hàn dùng cứu; bệnh hư thì bổ, bệnh thực thì tả.
Bệnh thuộc tạng (thuộc âm) thì dùng các huyệt Du sau lưng (thuộc dương); bệnh thuộc phủ (thuộc dương) thì dùng các huyệt Mộ ở ngực, bụng (thuộc âm), theo nguyên tắc: “theo dương dẫn âm, theo âm dẫn dương”.
(nguồn vatm.edu.vn)
Hướng dẫn điều trị và theo dõi bệnh xơ gan
Bệnh xơ gan là gì?
Xơ gan hay gọi chính xác hơn là chai gan, là giai đoạn sau của viêm gan mạn. Xơ gan là hậu quả của việc lá gan bị các tác nhân gây hại cho gan tấn côngtrong thời gian lâu dài dẫn đến tế bào gan bị hư hại, chết dần và tạo ra các mô sẹo, không phục hồi được làm cho gan chai cứng dần dần và không thực hiện được những chức năng bình thường của gan (suy gan).

- Ngưng uống bia, rượu hoàn toàn. Việc ngừng uống rượu giúp cho người bệnh được ổn định lâu dài hơn.
- Điều trị siêu vi B, C nếu xơ gan do nhiễm siêu vi B, C.
- Nếu xơ gan tim, điều trị suy tim sẽ cải thiện được chức năng gan.
- Phù chân, báng bụng: nằm nghỉ tại giường sẽ giúp thận lọc tốt hơn, tiều nhiều hơn.
- Hạn chế muối: không thêm nước tương, nước mắm hoặc rắc thêm muối vào thức ăn. Hạn chế thức ăn chế biến sẵn, thức ăn bán ngoài tiệm, thức ăn đóng hộp. không ăn các loại mắm, khô.
- Dùng thuốc lợi tiểu: cần có ý kiến của bác sĩ để tránh làm giảm thể tích máu, rối loạn điện giải, suy thận, hôn mê. Mục tiêu giảm cân nặng 0,5kg/ngày ở người bệnh báng bụng không có phù chân và giảm 1kg/ngày ở người bệnh báng bụng và phù chân.
- Truyền albumin.
- Giảm triệu chứng ngứa bằng cholestyramine.
- Ở người bệnh xơ gan ứ mật cần bổ sung các vitamine tan trong mỡ như A, D, E, K.
- nếu người bệnh có ói ra máu hay đi cầu phân đen, đây là một cấp cứu đe dọa tính mạng cần nhập viện ngay để có can thiệp điều trị.
- Dùng thuốc chẹn beta (Propranolol, Nadalol) người bệnh phải dùng thuốc liên tục, nếu tự ngưng thuốc đột ngột biến chứng ói ra máu sẽ dễ xảy ra hơn.
- Ngoài ra có thể nhập viện để làm nội soi can thiệp: chích xơ, cột thắt tĩnh mạch thực quản giãn. Liệu pháp này có thể thực hiện lặp lại nhiều lần.
- Hạn chế muối: từ giảm lượng Natri đến ngưng hoàn toàn Natri đưa vào bằng đường ăn uống.
- Nước uống cần khoảng 1 – 1,5 lít/ngày.
- Chất béo: cử ăn da, mỡ động vật, phủ tạng động vật, súp xương. Thay mỡ động vật bằng dầu hoặc bơ thực vật.
- Chất đạm: cần hạn chế đạm động vật mà nên dùng đạm thực vật như đậu nành, đậu hũ sẽ dễ tiêu hóa hơn. Khi có suy gan hoặc lơ mơ, hôn mê thì cần phải ngưng đạm hoàn toàn.
- Tránh ăn cá có nhiều xương và các loại thức ăn cứng khó tiêu khi người bệnh vừa mới qua cấp cứu xuất huyết tiêu hóa, tốt hơn hết là người bệnh nên ăn chế độ ăn loãng, dễ tiêu.
- Chất bột đường: cần được cung cấp đầu đủ để bảm đảm năng lượng cần thiết và tránh những cơn hạ đường huyết do giảm khả năng dự trữ glycogen.
- -Rau và trái cây tươi là nguồn cung cấp vitamin và khoáng chất cần thiết. Ăn nhiều rau còn giúp tránh táo bón, người xơ gan không nên để bị táo bón vì sẽ làm ứ đọng chất ure và dễ dẫn đến hôn mê.
- Ngoài ra, yaourt, chất men lactobacillus acidophilus còn có thể làm hóa giải NH3 trong phân làm giảm yếu tố thúc đẩy hôn mê gan.
- Hạn chế các chất kích thích, thức ăn chua, cay vì người bệnh xơ gan thường hay bị viêm dạ dàykèm theo.
- Nên chọn thức ăn hợp với khẩu vị, chia thành nhiều bữa ăn nhỏ trong ngày.
- Ở người bệnh nhiễm siêu vi viêm gan C, nếu thấy lượng sắt hoặc ferritin trong máu tăng cao thì phải hạn chế thuốc bổ máu có chất sắt, không nên ăn các loại thực phẩm chứa nhiều chất sắt như: thịt bò, phủ tạng động vật (tim, gan,…), rau dền, sà lách xoong, rau muống, mè…
- Nghỉ ngơi và tránh lao động mệt nhọc. người bệnh vẫn có thể làm các công việc bình thường hàng ngày nhưng đừng gắng sức.
(BS CKII Lê Văn Hải – Trưởng Khoa Khám Bệnh Viện Y Dược Học Dân Tộc)
Y học cổ truyền góp phần vào điều trị chứng mất ngủ
Không có gì tệ hơn khi ai đó bị mất ngủ. Mất ngủ còn gọi là rối loạn giấc ngủ; dù khó đi vào giấc ngủ, không duy trì đủ tình trạng ngủ hay thức dậy quá sớm đều ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, đặc biệt xảy ra trên những người trong độ tuổi lao động. Khi mất ngủ, cơ thể không có thời gian bù đắp lại năng lượng mất đi trong ngày làm việc trước đó. Trung bình một người lớn ngủ từ 4 đến 8 giờ, nhưng đánh giá giấc ngủ không chỉ dựa vào số giờ ngủ mà còn tuỳ thuộc vào chất lượng giấc ngủ, tức là cảm giác thoải mái và đủ sức để phục vụ cho một ngày làm việc tiếp theo. Nếu một người dù ngủ được 8 giờ một đêm nhưng sáng hôm sau vẫn có cảm giác mệt mỏi, uễ oãi thì coi như giấc ngủ chưa đạt chất lượng. Ngược lại, dù ngủ chỉ 5 giờ nhưng cơ thể sảng khoái và vui vẻ để bắt đầu một ngày làm việc mới thì giấc ngủ đạt yêu cầu.

1. Các yếu tố thuận lợi và nguyên nhân của mất ngủ
1.1. Yếu tố bên ngoài:
– Căng thẳng trong công việc hoặc tài chính
– Xung đột với người chung quanh
– Sự cố lớn trong cuộc sống
– Mệt mỏi do công việc hoặc làm việc theo ca – kíp
1.2. Bệnh nội khoa:
– Tim mạch: mạch vành, loạn nhịp tim, suy tim
– Hô hấp: hen phế quản, ngưng thở khi ngủ
– Đau mạn tính
– Bệnh nội tiết: đái tháo đường, cường giáp
– Tiêu hoá: viêm – loét dạ dày, viêm dạ dày – thực quản trào ngược
– Thần kinh: Parkinson, động kinh
– Phụ nữ đang mang thai
1.3. Tâm thần kinh:
– Rối loạn tính cách: trầm cảm, loạn thần
– Rối loạn lo âu
– Hội chứng cai thuốc, rượu
1.4. Mất ngủ do sử dụng một số thuốc:
– Thuốc chống động kinh
– Thuốc hạ huyết áp nhóm ức chế giao cảm
– Thuốc lợi tiểu
– Nhóm steroid, thuốc hưng phấn thần kinh.
Tuỳ theo mức độ và nguyên nhân của mất ngủ, Y học hiện đại có nhiều thế hệ thuốc từ thuốc kháng histamine tại thụ thể H 1 thế hệ 1 đến thuốc an thần gây ngủ để điều trị chứng mất ngủ tuy nhiên nếu sử dụng kéo dài thường có những phản ứng ngoại ý nhất định.
2. Y học cổ truyền với các biện pháp không dùng thuốc cũng như dùng thuốc có thể giúp cải thiện đáng kể giấc ngủ:
2.1. Không dùng thuốc:
– Tâp thói quen nên ngủ và thức vào một thời điểm nhất định trong đêm,
– Không nên ngủ vào buổi trưa quá dài (trung bình 15 – 30 phút là đủ),
– Phòng ngủ cần yên tĩnh, thoáng (không quá nhiều vật, sách vỡ…), ánh sáng phù hợp (không quá sáng),
– Không ăn quá no hoặc ngược lại bị quá đói sẽ ảnh hưởng đến giấc ngủ,
– Tránh uống trà, cà phê đậm đặc vài giờ trước khi ngủ,
– Tập thở sâu, đặc biệt thở cơ hoành (thở vào sâu, bụng di động theo nhịp thở trong khi hạn chế cử động của lồng ngực: vai không nhấc lên, cơ cổ, cơ ngực không co kéo mạnh).
– Tập thư giãn: nằm thả lỏng các cơ từ mặt, cổ, ngực, bụng, tay, chân; không nghĩ ngợi miên man; tập trung tư tưởng theo dõi vào động tác hít vào thở ra đều đặn; tự nhủ rằng tay chân và toàn thân tôi có cảm giác nặng ấm. Thực hiện tốt thư giãn, giấc ngủ sẽ dễ dàng có chất lượng.
– Day ấn một số huyệt có tác dụng dịu sự căng thẳng và an thần như: Huyệt Ấn đường (điểm giữa hai đầu trong chân mày), huyệt An miên (điểm sau trái tai khoảng 1,5 cm), huyệt Nội quan (điểm giữa 2 gân cơ trên nếp gấp cổ tay khoảng 3 cm), huyệt Tam âm giao (điểm trên chỗ cao nhất của mắt cá trong khoảng 4 cm, sát bờ sau xương chày), huyệt Túc tam lý (dưới góc dưới xương bánh chè khoảng 4 cm, phía ngoài bờ trước xương chày).
– Xoa nóng bàn chân cả mặt lòng và mặt lưng, hoặc ngâm bàn chân trong nước ấm khoảng 50 0c.
2.2. Sử dụng thuốc: một số dược liệu dễ tìm quanh ta có tác dụng trấn tĩnh giúp dễ ngủ:
– Rau nhút: Rau nhút non được sử dụng nấu canh với cá, thịt, tôm
– Củ sen: là phần cây nằm dưới bùn có tác dụng an thần, bổ dưỡng
– Hạt sen: có nhiều chất dinh dưỡng và an thần kinh
– Tâm sen: phần lõi màu xanh nằm giữa Hạt sen, có tác dụng chống hồi hộp, mất ngủ.
– Củ súng: có lợi cho người suy nhược tâm – thần kinh, rối loạn giấc ngủ.
– Nhãn nhục: nấu nước hoặc kết hợp Hạt sen, Táo nấu chè giúp dẽ ngủ.
– Lá vong nem: có tác dụng an thần mạnh khi hấp vào nồi cơm hoặc luộc hay nấu chung với vài vị thuốc khác.
– Lạc tiên: bộ phận dùng là Lá và Thân, có tác dụng an thần kinh, giúp tăng chất lượng giấc ngủ.
– Ăn hoặc uống nước ép quả Cà chua, Cà rốt, Quả Bơ, trái khóm, chuối… vì có chứa nhiều vitamin B2, B3, B6, C… giúp cơ thể tạo được chất Serotonin, một neurohormone giúp ngủ.
Tuy nhiên, nếu áp dụng các biện pháp trên vẫn chưa cải thiện được giấc ngủ. Chúng ta cần tìm hiểu đánh giá tinh trạng cụ thể của người bệnh, YHCT gọi là Biện chứng luận trị, nghĩa là tìm ra cơ quan quan nào của cơ thể hiện bất ổn, tổng trạng tốt hay suy nhược để chọn vị thuốc hoặc bài thuốc phù hợp.
Bs Trần Văn Năm (Viện YDHDT TP.HCM)
Danh y Hải Thượng Lãn Ông

Hải Thượng Lãn Ông tên hiệu là Lê Hữu Trác tên thường là Lê Hữu Chẩn, là một đại y tôn của nước ta.
Sinh ngày 12/11/1724 năm Giáp Thìn về cuối đời Hậu Lê, ở thôn Văn Xá, làng Lưu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương, (nay là thôn Thanh Xá, xã Hoàng Hữu Nam, huyện Yên Mỹ, Hải Hưng). Mất ngày rằm tháng Giêng năm Tân Hợi, niên hiệu Quang Trung thứ 4 (1791) tại xã Tình Diễm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Cha là Lê Hữu Mưu đỗ tiến sĩ, làm Thượng Thư đời Lê Dụ Tôn, mẹ quê ở Bàu Thượng, làng Tình Diễm, Hương Sơn, Hà Tĩnh. Hồi nhỏ theo cha đi học ở Thăng Long, năm 1739 cha mất, lớn lên gặp thời loạn, vua Lê hư vị, Chúa Trịnh lộng quyền, các nơi đều nổi dậy chống đối, có phen Lãn ông cũng ra cầm quân dẹp loạn, nhưng vì chán ghét cuộc chém giết tương tàn ấy, nên nhân có tin người anh ở Hương Sơn mất, ông bèn viện cớ về quê nuôi mẹ. Nhân bị đau ốm, Lãn ông mới tìm đến vị Lương y Trần Độc ở núi Thành, xã Hương Cần, huyện Thanh Chương, Nghệ An để chữa bệnh. Trong thời gian ở đó hơn 2 năm, Lãn ông đã nghiên cứu các sách y học kinh điển nhất là bộ Phùng Thị Cẩm Nang và cùng họ Trần bàn luận về y học.
Bấy giờ có Hải Quận Công biết Lãn Ông văn võ kim toàn muốn mời ra cầm quân lần nữa, nhưng vì chán ghét chiến tranh, không ham danh lợi Lãn Ông đã cương quyết chối từ, trở về Hương Sơn nghiên cứu y học và chữa bệnh.
Năm 1760, mẹ mất, lúc đó tuy mới 35 tuổi đã nổi tiếng là danh y, ngoài việc chữa bệnh, Hải Thượng Lãn Ông đã mở lớp dạy cho đồ đệ. Suốt hai mươi mấy năm lưu tâm nghiên cứu, đem hết tài năng và tinh thần tận tụy chữa bệnh và giảng dạy. Hải Thượng đã lĩnh hội được nguyên lý uyên thâm của Đông y, thu lượm bao kinh nghiệm phong phú về chẩn trị, đúc kết lại thành một hệ thống kết hợp chặt chẽ lý luận với thực tiễn lâm sàng trong một tác phẩm rất lớn và rất có giá trị là bộ Y Tông Tâm Lĩnh. Ngoài ra lại còn viết tập”Vệ Sinh Yếu Quyết” và một bản gọi “Nữ Công Thắng Lãm”.
Năm 1782, đời Lê Hiến Tông, Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 43, bấy giờ đã ngoài 60 tuổi Hải Thượng bị triệu về Kinh để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán con Chúa Trịnh Sâm.
Ở triều đình, bị các ngự y ganh tị gièm pha, mãi sau Hải Thượng mới được phép chữa nên không có kết quả. Nhân ở kinh đô một năm ông tìm mọi cách để in bộ sách của mình nhưng không thành công, lại có ý tìm lại các vị danh y tại đó để trao đổi học thuật nhưng chỉ thu lượm được một số bài thuốc kinh nghiệm hoặc gia truyền. Hải Thượng đã kể lại cuộc hành trình này ở tập Thượng Kinh Ký Sự, một tài liệu văn học có giá trị phản ánh đời sống của xã hội Việt Nam hồi đó.
Lãn Ông trở về Hương Sơn tiếp tục nghiên cứu, chữa bệnh, giảng dạy và hoàn thành bộ Y Tông Tâm Lĩnh, bộ sách Đông y lớn nhất và quí nhất ở nước ta: gồm 63 cuốn (nay chỉ còn 55 cuốn) do Vũ Xuân Hiên thu thập lại và đem in năm 1866.
Nội dung bao gồm y lí, chẩn trị, phương dược, trình bày có hệ thống, kết hợp lý luận với thực tiễn, phân tích chứng minh rõ ràng, như bàn về Thủy Hỏa thì có cuốn Huyền Tẩn Phát Vi, bàn về khí huyết có cuốn Khôn Hóa Thái Chân, trị các bệnh ngoại cảm thì có Ngoại Cảm Thông Trị, biện biệt tạp chứng thì có Bách Bệnh Cơ Yếu, chẩn đoán thì có Y Gia Quan Miện, biện luận thì có Đạo Lưu Dư Vận, vận khí có Vận Khí Bí Điển … cho đến các loại phụ khoa (Phụ Đạo Xán Nhiên), nhi khoa (Ấu Ấu Tu Tri) đều viết một cách tinh thông, giầu kinh nghiệm.
Tuy chịu ảnh hưởng của y học Trung Hoa nhất là Phùng Thị nhưng Lãn Ông đã có óc sáng tạo vận dụng y lí hợp với hoàn cảnh khí hậu và thể chất của người Việt Nam và đã sử dụng thuốc Nam để chữa bệnh, như ở các cuốn Lĩnh Nam Bản Thảo, Bách Gia Trân Tàng và Hành Giản Trân Nhu. Nhận định về Lĩnh Nam không có thương hàn, Lãn Ông đã lập ra nhiều phương thang mới ghi ở cuốn Ngoại Cảm Thông Trị. Đặc biệt trong 2 cuốn Dương Án và Âm Án, ghi lại những y án và phân tích về những bệnh đã chữa khỏi hoặc không chữa được. Cuốn Châu Ngọc Cách Ngôn để lại cho chúng ta những điều căn dặn rất bổ ích về chẩn đoán trị liệu và những sai lầm tai hại cần tránh.
Thân thế và sự nghiệp của Lãn Ông đã có một ảnh hưởng rất lớn đối với giới Đông y Việt Nam cả về mặt đạo đức và chuyên môn.
Bộ sách Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh gồm 28 tập, 66 quyển, nội dung gồm:
1. Tập đầu: Có bài tựa, Phàm lệ mục lục và Y nghiệp phần chương nói về nghề y, thái độ tư cách, khái quát bộ sách và tập thơ Y Lí Thâu Nhàn.
2- Tập Nội Kinh Yếu Chỉ: nêu khái yếu về cuốn kinh điển Nội kinh.
3. Tập Y Gia Quan Miện: Khái niệm về Âm dương, Ngũ hành, quẻ số, can chi, mạch yếu.
4. Tập Y Hải Cầu Nguyên: Soạn những lời thiết yếu của các tiên hiền, chú giải kỹ để làm rõ những điều huyền bí.
5. Tập Huyền Tẫn Phát Vi: Nói rõ công dụng mở đầu của ‘Tiên thiên’, máy Âm dương, khiếu Thủy Hỏa và cách phân biệt chứng trạng, dùng thuốc.
6- Tập Khôn Hóa Thái Chân: gồm có công dụng nuôi sống của ‘Hậu thiên’ nguồn gốc của khí huyết, cách luận bệnh xử phương.
7- Tập Đạo Lưu Dự Vận: đem các ý nghĩ còn nghi hoặc, chưa rõ nghĩa trong các sách, cùng với những chỗ người xưa chưa nói đến để biện luận rõ ràng mà bổ sung vào những chỗ còn thiếu sót.
8. Tập Vận Khí Bí Điển: chọn lấy bài phú Chiêm Vận, phong giác của họ Vương và thiên Ngọc Lịch, ngũ hành, chia ra cách xem mây, xem gió, chủ vận, khách vận, chủ khí, khách khí, lập thành từng cách nghiệm đoán.
9. Tập Dược Phẩm Vậng Yếu: chọn lấy 150 vị thuốc thường dùng trong Bản thảo, chia làm 5 bộ để tiện tra khảo.
10- Tập Lĩnh Nam Bản Thảo: soạn các vị thuốc cây cỏ ở Lĩnh Nam (bao gồm Việt Nam và miền Nam Trung quốc), chia thành môn loại, chú thích tính chất, cách chữa, cách thu hái…
11- Tập Ngoại Cảm Thông Trị bàn về nước Nam ta không có bệnh thương hàn, mắc bệnh ngoại tà, đều là bệnh cảm mạo, tác giả không theo hình chứng lục kinh của Thương hàn luận nhưng Lãn Ông đã sáng chế ra 3 phương giải Biểu, 6 phương hòa Lý để chữa tất cả các bệnh ngoại cảm.
12- Tập Bách Bệnh Cơ Yếu: chọn lấy các bệnh, môn trong sách kinh điển, xét nguyên nhân, cơ chế bệnh, phân biệt chứng trạng hư thực, tiên lượng cách chữa, xử phương, dụng dược.
13. Tập Y Trung Quan Miện: soạn những điều hay mà tác giả đã lĩnh hội được ý nghĩa sâu sắc, những điểm cốt yếu.
14. Tập Phụ Đạo Xán Nhiên” chọn lọc trong các sách Phụ khoa những vấn đề về kinh nguyệt, đới hạ, thai, sản… lấy những điểm thiết thực cốt yếu, bỏ chỗ rườm rà… đồng thời bổ sung thêm những ý kiến của tác giả.
15. Tập “Tọa Thảo Lương Mô”, tác giả thấy trong nhiều sách trước đó về Sản khoa viết rườm rà, được điều nọ, mất điều kia nên ông soạn, sắp xếp lại, bổ sung hoàn chỉnh hơn.
16. Tập Ấu Ấu Tu Tri: tác giả thấy trong nhiều sách Nhi khoa trước đó viết rời rạc, không thống nhất nên tác giả đã soạn lại, xét nguyên nhân cơ chế bệnh sinh, phân biệt chứng trạng cách chữa, xử phương làm chỗ cốt yếu và thêm phần tâm đắc.
17. Tập Mộng Trung Giác Đậu: trình bày đầy đủ các kiến thức về bệnh Đậu… và bổ sung thêm kinh nghiệm đặc sắc phong phú.
18. Tập Ma Chẩn Chuẩn Thằng: soạn các phương pháp và kinh nghiệm tâm đắc trong điều trị bệnh sởi.
19. Tập Tâm Đắc Thần Phương: trong khi lâm lâm sàng, tác giả đã hết sức suy nghĩ chọn ra nhiều phương thuốc thần diệu trong Phùng Thị Cẩm Nang.
20. Tập “Hiệu Phỏng Tân Phương: trong khi lâm sàng tác giả đã hết sức suy nghĩ lập ra nhiều phương thuốc đáp ứng với tình thế khó khăn.
21. Tập Bách Gia Trân Tàng: tiếp thu bí phương của ông ngoại truyền lại cùng thu thập các phương thuốc quý, chữa được nhiều trường hợp khó.
22. Tập Hành Giản Trân Nhu: chọn lấy các bài thuốc có những vị thuốc Nam, thuốc Bắc thông thường, dễ kiếm, tiện dùng.
23. Tập Y Phương Hải Hội: tập hợp soạn các thang tễ, hoàn tễ trong các sách, rườm rà thì giảm đi, thiếu thì bổ sung thêm.
24. Tập Y Án, Dương Án: Tập hợp tâm đắc suy nghĩ về những trường hợp nguy nan mà chữa thành công.
25. Tập Y Án, Âm Án: tập hợp những bệnh án bệnh nặng, khó, tình thế tuyệt vọng dù cố hết sức mà không kết quả để rút kinh nghiệm.
26. Tập Truyền Tâm Bí Chỉ hoặc còn gọi là Châu Ngọc Cách Ngôn, biện luận rõ ràng đầy đủ những nghĩa lý sâu xa trong sách, những chỗ tinh hoa của y thuật.
27. Tập Vĩ. (cuối) là cuốn Thượng Kinh Ký Sự, thuật lại cuộc lên kinh thành chữa bệnh cho Chúa Trịnh. Chỉ với giá trị sử học, văn học của cuốn ký sự này đã làm cho sự nghiệp văn hóa của Hải Thượng Lãn ông nổi danh không kém gì sự nghiệp y học của tác giả. Về sau đă thu thập được nốt 2 cuốn là Nữ Công Thắng Lãm và Vệ Sinh Yếu Quyết.
28. Tập của Pho Sách Bách Khoa Thư về Đông y “Lãn ông tâm lĩnh” là 28 viên ngọc quý, 28 vị sao (nhị thập bát tú) của bầu trời Y học phương Đông.
(nguồn vatm.edu.vn)