Bệnh trĩ do dãn quá mức các đám rối tĩnh mạch trĩ (hay sự phình tĩnh mạch) ở mô xung quanh hậu môn, gây viêm sưng hoặc xuất huyết. Bệnh trĩ thường xảy ra ở người có thói quen ăn uống không tốt (ăn ít chất xơ, rau quả); bị táo bón kinh niên; công việc ít đi lại; phụ nữ mang thai; do di truyền… Người mắc bệnh trĩ mới đầu chỉ có cảm giác ngứa rát đôi chút, lâu dần sẽ đi ngoài ra máu và đau rát nhiều hơn. Trong những năm gần đây người mắc bệnh Trĩ ngày càng trẻ hóa có xu hướng gia tăng, nhất là những người làm việc ở môi trường văn phòng, hay những người thường xuyên sử dụng rượu bia…bệnh trĩ nếu không điều trị đúng cách, kịp thời sẽ dẫn đến biến chứng đối với người bệnh.
Y học hiện đại chia bệnh trĩ chia làm 3 loại: trĩ nội, trĩ ngoại và trĩ hỗn hợp. Những biểu hiện rõ rệt ở trĩ là chảy máu và sa búi trĩ. Chảy máu là triệu chứng có sớm và thường gặp nhất. Người bệnh sẽ phát hiện khi nhìn thấy máu ở giấy chùi vệ sinh hoặc thấy vài tia máu nhỏ dính vào thỏi phân rắn.
Về sau mỗi khi táo bón, máu chảy thành giọt hoặc tia. Có khi máu chảy rất nhiều mỗi lần đi lại hay ngồi xổm. Sa búi trĩ thường xảy ra trễ hơn sau một thời gian đi cầu có chảy máu.
Lúc đầu, sau mỗi lần đại tiện thấy có khối nhỏ lồi ra ở lỗ hậu môn, sau đó khối đó tự tụt vào được. Về sau, khối lồi ra to lên dần và không tự tụt vào mỗi khi đi cầu nữa, mà phải dùng tay nhét vào. Cuối cùng khối sa đó thường xuyên nằm ngoài hậu môn. Ngoài 2 triệu chứng chính trên, bệnh nhân có thể có kèm theo các triệu chứng khác: đau khi đi cầu, ngứa quanh lỗ hậu môn. Triệu chứng đau, rát xảy ra khi tình trạng bệnh nặng lên
Cách điều trị bệnh
theo các chuyên gia y tế việc phòng ngừa và điều trị bệnh trĩ sớm là cần thiết đối với tất cả mọi người, do đó mỗi người cần có chế độ ăn uống lành mạnh, ăn nhiều rau xanh có tác dụng nhuận tràng, uống đủ 2 lít nước mổi ngày, khi có triệu chứng táo bón cần tìm cách để chấm dứt tình trạng này, không để táo bón xuất hiện thường xuyên, nên tập thể dục đều đặn hàng ngày với một môn thể thao phù hợp, ngoài ra mọi người có thói quen đi vệ sinh đúng giờ, không nên nhịn đi vệ sinh, vì sau vài lần nhịn sẽ bị táo bón dễ gây tái phát bệnh trĩ.
BS Quan Vũ Ngọc đang châm cứu cho một bệnh nhân hiếm muộn đến từ Nam Định. Ảnh: NGUYỄN QUYÊN
Với những người bị hiếm muộn, việc kết hợp Đông y và Tây y sẽ làm tăng khả năng thụ thai khi làm thụ tinh trong ống nghiệm.
Niềm hy vọng mới cho người hiếm muộn
Bế đứa con năm tháng tuổi trên tay, chị VNT, sống tại quận 7, TP.HCM vui mừng chia sẻ: “Sau một thời gian dài điều trị, trông mong đợi chờ trong vô vọng, cuối cùng tôi cũng đã được làm mẹ”.
Chị T. cho biết cưới nhau hơn một năm, chị có thai nhưng thai ngoài tử cung. Sau đó, chị đi khám, bác sĩ chẩn đoán một bên buồng trứng của chị có vấn đề, cho nên xác suất có thai chỉ còn 50%. Chị đi canh trứng sáu tháng nhưng vô tác dụng nên quyết định làm thụ tinh trong ống nghiệm. Bốn năm điều trị kéo dài với 15 lần chuyển phôi thất bại, trong một lần tình cờ đọc trên mạng, chị tìm đến Đông y như niềm hy vọng cuối cùng. “Tới đây, tôi được các bác sĩ giúp đỡ trong quá trình điều trị hơn một năm từ bắt mạch, uống thuốc đến châm cứu hỗ trợ chuyển phôi. Với quyết tâm của bác sĩ và sự cố gắng mà giờ đây tôi đã được làm mẹ” – chị T. cười hạnh phúc.
Cũng giống chị T., gia đình chị Đoàn Thị CT, 40 tuổi, ở quận 7, đã có tin vui sau khi thực hiện châm cứu tại Viện Y dược học dân tộc TP.HCM. Chị CT cho hay chị đã điều trị khắp nơi từ Nam ra Bắc suốt 12 năm, đã nhiều lần lấy trứng nhưng vẫn không có kết quả. Thế nhưng sau khi được BS Quan Vũ Ngọc, khoa Ngoại tổng hợp, Viện Y dược học dân tộc TP.HCM, điều trị châm cứu hỗ trợ thụ tinh trong ống nghiệm, kết hợp uống thuốc Đông y, chị đã đậu thai và đến nay thai phát triển rất tốt. Chị vẫn tiếp tục uống thuốc và đang mong đợi ngày bé chào đời.
BS Quan Vũ Ngọc đang châm cứu cho một bệnh nhân hiếm muộn đến từ Nam Định. Ảnh: NGUYỄN QUYÊN
Phải châm cứu 7-15 ngày trước khi chuyển phôi
BS Ngọc cho biết hiện mỗi tuần Viện Y dược học dân tộc TP.HCM tiếp nhận 5-10 trường hợp phụ nữ hiếm muộn đến tìm sự giúp đỡ trong tuyệt vọng. Đa phần họ đã áp dụng các biện pháp hỗ trợ sinh sản như bơm tinh trùng vào buồng tử cung, thụ tinh trong ống nghiệm nhưng vẫn không thành công. Họ chọn Đông y như niềm hy vọng cuối cùng trên con đường tìm kiếm đứa con cho mình. Và những bệnh nhân này khi được hỗ trợ thêm Đông y, có nhiều người đã có thể mang thai và sinh con.
Cuộc trò chuyện với PV luôn bị gián đoạn vì BS Ngọc thỉnh thoảng lại nhận được những cuộc điện thoại của bệnh nhân hiếm muộn thông báo đã đậu thai sau khi châm cứu. BS Ngọc khẳng định: “Thuốc Đông y cùng với châm cứu sẽ có tác dụng hỗ trợ tăng sức khỏe, tăng khả năng đậu thai trước quá trình chuyển phôi cho phụ nữ hiếm muộn. Hiện thụ tinh trong ống nghiệm, tỉ lệ thành công khoảng 40%-45%. Thế nhưng trước khi chuyển phôi, người này được châm cứu 7-15 ngày thì khả năng thụ thai sẽ tăng thêm 30%. Châm cứu trong thời gian này sẽ làm tăng cường lưu thông máu huyết ở vùng tử cung, tăng lưu lượng dòng máu đến tử cung, làm giảm co thắt tử cung, giúp bệnh nhân giảm stress, tinh thần thoải mái. Từ đó, tỉ lệ đậu thai kết hợp Đông y và Tây y có thể đạt khoảng 70%”.
Tuy nhiên, BS Ngọc cũng lưu ý “việc châm cứu phải tiến hành trước thời gian chuyển phôi 7-10 ngày, các trường hợp châm cứu 2-3 ngày trước khi chuyển phôi sẽ ít có tác dụng. Châm cứu lúc này chủ yếu là hỗ trợ cho Tây y, cho nên bệnh nhân vẫn tuân thủ phác đồ điều trị bên Tây y. Ngoài châm cứu, bệnh nhân sẽ được chỉ định uống thuốc tùy thuộc vào tình trạng bệnh lý của mình. Chủ yếu là thuốc bổ cho nên bệnh nhân có thể uống song song với thuốc Tây, miễn cách nhau một khoảng thời gian nhất định. Bệnh nhân uống thuốc Đông y hoàn toàn không ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như thai nhi”.
Bàn về vấn đề trên, BS Đinh Thị Lan Hương, bác sĩ nội trú Viện Y dược học dân tộc TP.HCM, cho biết thêm Đông y có những phương pháp rất tốt để điều trị hiếm muộn như sử dụng thuốc, châm cứu và một số biện pháp thuộc về thực dưỡng. Đối với phụ nữ chuẩn bị thụ tinh trong ống nghiệm, châm cứu sẽ giúp họ khỏe mạnh hơn, đầy đủ khí huyết để việc đặt phôi đạt hiệu quả cao. Còn việc dùng thêm thuốc sẽ làm tăng niêm mạc tử cung tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển phôi. Tuy nhiên, BS Lan Hương cũng cho hay không phải bệnh lý nào cũng có thể sử dụng Đông y.
Năm 2013, BS Quan Vũ Ngọc thực hiện đề tài nghiên cứu tốt nghiệp thạc sĩ “Đánh giá chất lượng của châm cứu vào giai đoạn trước và sau chuyển phôi trên bệnh nhân hiếm muộn làm thụ tinh trong ống nghiệm ở BV Hùng Vương”. Đề tài được thực hiện với sự phối hợp của BS CKII Lý Thái Lộc (Trưởng khoa Hiếm muộn BV Hùng Vương), PGS-TS Nguyễn Duy Tài (bộ môn sản ĐH Y Dược TP.HCM), BS Vũ Thị Nhung (Hội Phụ sản TP.HCM).
Việc châm cứu đã được thực hiện trên 99 bệnh nhân đang được thụ tinh trong ống nghiệm tại BV Hùng Vương đã đến giai đoạn chuyển phôi. Vào trước và sau thời điểm chuyển phôi, họ được bác sĩ chỉ định châm cứu 25 phút tại các huyệt ở tai, đầu, vùng bụng, chân. Kết quả cho thấy nhóm được châm cứu tỉ lệ có thai 50% và ở nhóm giả châm cứu chỉ có 26,5% (dùng kim giả để châm). Kết quả này cho phép loại trừ việc châm cứu chỉ là một liệu pháp tinh thần vì với những bệnh nhân thực hiện phương pháp giả châm, tỉ lệ thụ thai ngang với tỉ lệ không can thiệp, ở mức dưới 30%.
________________________________________
Năm 2015, qua tham khảo các tài liệu nghiên cứu trên thế giới thấy hầu như bệnh nhân thụ tinh ống nghiệm đều được châm cứu và đa phần làm trước một tuần lễ. Tôi đã thử nghiệm tại viện và cho kết quả khá khả quan. Thống kê sơ bộ, từ tháng 4 đến tháng 7-2017, trong 30 bệnh nhân làm thụ tinh trong ống nghiệm được châm cứu trước khi chuyển phôi, có 21 bệnh nhân đã đậu thai nhờ phương pháp châm cứu này.
Sắp tới, tôi sẽ viết một báo cáo về những trường hợp đã thành công trình lên ban giám đốc xét duyệt, tìm cơ hội hợp tác với các bệnh viện đang điều trị hiếm muộn như Hùng Vương, Từ Dũ, Mỹ Đức…
BS QUAN VŨ NGỌC, khoa Ngoại tổng hợp
Viện Y dược dân tộc học TP.HCM
Nicky Trần là con thứ ba trong một gia đình Việt kiều Mỹ. Từ khi sinh ra, cậu bé có biểu hiện chậm phát triển về nhận thức, ngôn ngữ và hành vi. Đến nay 16 tuổi, thân thể cao to lực lưỡng song em chỉ nói được từng câu tiếng Anh ngắn và không biết nói tiếng Việt. Gặp bất kỳ ai, em cũng nói “Hi” rồi hỏi “What’s your name?”, “Where are you from?”, phá lên cười ngô nghê. Tiếp xúc với một người bao nhiêu lần Nicky cũng không nhớ mà chỉ lặp lại chừng ấy câu hỏi.
Chị Trương Thị Ngọc Hoa, người thân của Nicky cho biết gia đình phát hiện cậu bé bị tự kỷ từ khi còn nhỏ. Nicky hiền lành, mê chơi game, không thích chơi với bất kỳ ai, hay đập phá đồ đạc trong nhà, không hài lòng chuyện gì em lại nổi nóng và phá phách. Bác sĩ ở Mỹ chẩn đoán cậu bé bị tự kỷ, dùng thuốc và tập vật lý trị liệu nhưng không tiến triển nhiều. Cậu bé lên 6 tuổi học ở trường dành cho trẻ tự kỷ, tuy nhiên sau 10 năm vẫn chưa rành mặt chữ.
Mới đây bố mẹ Nicky đưa con về Việt Nam để chữa theo phương pháp y học cổ truyền. Hàng ngày cậu bé đến Viện Y dược học dân tộc TP HCM để châm cứu trị liệu. Thầy thuốc ưu tú Nguyễn Quốc Văn, Trưởng khoa Điều trị chăm sóc đặc biệt cho trẻ tự kỷ, Bệnh viện Châm cứu Trung ương, cho biết Nicky mắc hội chứng tự kỷ với đặc trưng là chậm phát triển ngôn ngữ, khả năng tương tác xã hội và hành vi thu hẹp, nói ngọng và hay lặp lại những câu từ tương tự nhau.
Theo bác sĩ Văn, hiện nay trên thế giới chưa có nghiên cứu nào khẳng định nguyên nhân gây tự kỷ, song một số yếu tố nguy cơ được cho là có liên quan. Chẳng hạn như yếu tố di truyền trên gen yếu, các tác nhân môi trường trước sinh, người mẹ bị nhiễm trùng hoặc dùng thuốc khi mang thai, thai phụ có vấn đề về tuyến giáp, căng thẳng trước khi sinh…
Quan niệm y học cổ truyền cho rằng chứng tự kỷ là do khí không ổn định ảnh hưởng đến chức năng lục phủ ngũ tạng, gây mất cân bằng trong cơ thể dẫn đến bệnh. Thường gặp 2 thể: Khí hư và huyết hư. Tùy theo thể bệnh, bác sĩ chỉ định phác đồ điều trị khác nhau, thông thường cần kết hợp nhiều phương pháp như điện châm, thủy châm, cấy chỉ, xoa bóp, bấm huyệt, tập vật lý trị liệu, giáo dục trị liệu hành vi… Quy trình điều trị này đã được Bộ Y tế công nhận và Bệnh viện Châm cứu Trung ương vừa chuyển giao hoàn toàn cho Viện Y dược học dân tộc TP HCM.
Nghiên cứu của Bệnh viện Châm cứu Trung ương trên các bệnh nhi tự kỷ đã điều trị bằng y học cổ truyền nhiều năm qua cho thấy trẻ được điều trị càng sớm thì khả năng chữa khỏi và hòa nhập cộng đồng càng cao. Hiệu quả điều trị tốt nhất ở nhóm từ 1 đến 3 tuổi vì đây là khoảng thời gian vàng với tỷ lệ hòa nhập cộng đồng lên đến 60%, trong đó 20% có thể đi học bình thường. Các trường hợp trên 6 tuổi, kết quả điều trị hạn chế hơn. Độ tuổi càng cao thì khả năng hồi phục hoàn toàn càng giảm, bệnh nhi từ tuổi 15 trở lên chỉ có thể cải thiện được một phần tình trạng.
Với Nicky Trần, Bác sĩ Văn cho biết cậu bé đến viện điều trị muộn. Hiện em 16 tuổi, tức qua “thời gian vàng” để can thiệp điều trị tự kỷ nên không thể hồi phục hoàn toàn mà chỉ có thể cải thiện được một phần nào nhận thức và khả năng tự chủ hành vi.
Dự kiến Nicky được điều trị liệu trình khoảng 6 tháng, duy trì mỗi ngày. “Mục tiêu là giúp cháu hòa nhập cộng đồng, biết tự lo cho bản thân để không trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội”, bác sĩ Văn chia sẻ. Ngoài ra, quá trình chữa trị cho một đứa trẻ tự kỷ đòi hỏi sự cố gắng, kiên trì không những của bác sĩ mà còn cả gia đình và bản thân các cháu nữa.
Phòng Đào tạo – Nghiên cứu khoa học – Chỉ đạo tuyến Viện Y Dược học dân tộc thông báo chiêu sinh lớp Châm cứu sơ cấp Ngoài giờ 09
Giáo viên : LY. Đoàn Diệp Trọng, Ths.BS. Lê Ngọc Thanh
Khai giảng: Thứ 7 ngày 07 – 10 – 2017 ( Khi đủ 20 học viên đăng ký )
Ngày học: Thứ Bảy – Chủ Nhật
Giờ học: 13 giờ 30 – 17 giờ 00
Học phí: 1.600.000đ (bao gồm tài liệu)/ khóa/15 buổi học
Hiệu quả của phương pháp thủy châm trong điều trị đau vai gáy được báo cáo tại hội nghị “Ứng dụng thủy châm và nhĩ châm trong điều trị bệnh” do Viện Y dược học dân tộc TP HCM kết hợp với Bệnh viện Châm cứu Trung ương tổ chức cuối tuần qua. Bác sĩ chuyên khoa 1 Nhâm Chấn Phát lưu ý phương pháp này chỉ áp dụng cho những trường hợp đau vai gáy do thoái hóa đốt sống cổ. Không dùng cho bệnh nhân bị đau vai gáy trong các bệnh cảnh liên quan đến chèn ép tủy cổ như viêm tủy, thoát vị đĩa đệm thể trung tâm, u tủy, rỗng tủy.
Bệnh nhân đang được điều trị bằng phương pháp thủy châm tại Viện Y dược học dân tộc TP HCM. Ảnh: CT
Theo bác sĩ Phát, hội chứng đau vai gáy liên quan đến bệnh lý đốt sống cổ rất phổ biến hiện nay. Tùy theo mức độ và vị trí tổn thương, bệnh nhân có thể bị những rối loạn cảm giác và vận động do rễ thần kinh thuộc đám rối thần kinh cánh tay chi phối. Triệu chứng thường gặp là đau hoặc tê sau gáy, lan xuống vai và tay, có thể kèm theo yếu, giảm trương lực ở các cơ tương ứng với các rễ thần kinh bị thương tổn chi phối.
Y học cổ truyền lý giải nguồn gốc của chứng đau vai gáy do phong hàn thấp xâm nhập làm tổn thương kinh lạc, cản trở lưu thông khí huyết và gây đau. Nếu không điều trị, lâu ngày sẽ gây tổn thương gân cơ gây yếu, teo cơ.
Các nhà nghiên cứu y học cổ truyền tìm ra phương pháp thủy châm là sự kết hợp giữa châm cứu và đưa thuốc vào huyệt giúp điều trị hiệu quả chứng đau vai gáy ở những bệnh nhân bị thoái hóa đốt sống cổ. Thông thường người bệnh cần thủy châm mỗi ngày một lần, mỗi lần châm từ 2 đến 3 huyệt. Một liệu trình điều trị từ 15 đến 30 lần tùy theo mức độ bệnh và đáp ứng điều trị của từng bệnh nhân.
Các bác sĩ lưu ý: Thủy châm là phương pháp mới và khó hơn châm cứu thông thường nên cần được thực hiện bởi các bác sĩ, y sĩ, lương y được đào tạo chuyên về thủy châm. Quá trình thực hiện cần dùng bơm tiêm vô khuẩn, loại 5 ml dùng riêng cho từng người, các loại thuốc được dùng phải theo đúng y lệnh. Người bệnh cần được khám và làm hồ sơ bệnh án theo quy định. Có thể tiến hành thủy châm ở tư thế nằm ngửa hoặc ngồi.
Sau khi thủy châm, bệnh nhân cần được theo dõi tại chỗ và toàn thân. Một số ít trường hợp có thể xảy ra tai biến (gọi là vựng châm) với các triệu chứng hoa mắt, chóng mặt, vã mồ hôi, mạch nhanh, sắc mặt nhợt nhạt. Khi đó, xử trí bằng cách rút kim ra ngay, lau mồ hôi, ủ ấm, uống nước chè đường nóng, nằm nghỉ tại chỗ, đồng thời day bấm các huyệt thái dương, nội quan và theo dõi mạch, huyết áp. Nếu có tình trạng chảy máu khi rút kim, cần dùng bông vô khuẩn ấn tại chỗ, không được day.
Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Thị Tân, Trưởng Khoa Y học cổ truyền, Trường Đại học Y Dược Huế, cho biết nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh hiệu quả của phương pháp cai nghiện thuốc lá bằng y học cổ truyền, đặc biệt là châm cứu. Các báo cáo gần đây ở Hàn Quốc khẳng định phương pháp nhĩ châm (châm cứu vào tai) giúp hàng nghìn người từ bỏ được thói quen hút thuốc và cải thiện sức khỏe. Chương trình này đang được nhân rộng tại các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Gần đây các chuyên gia trường Đại học Kyung Hee, Hàn Quốc, phối hợp với Trường Đại học Y Dược Huế thực hiện nghiên cứu đánh giá hiệu quả phương pháp nhĩ châm trong cai nghiện thuốc lá tại tỉnh Quảng Nam. Chương trình triển khai trong 5 tuần từ giữa tháng 9 đến tháng 10/2016 trên 250 người nghiện thuốc lá. Trước khi thực hiện, tất cả tình nguyện viên đều được tư vấn tâm lý và cam kết cai thuốc lá, đồng thời tiến hành đo đạc các chỉ số như nồng độ CO trong hơi thở, huyết áp, nhịp tim. Sau đó họ được châm cứu vào các huyệt ở tai bao gồm yết hầu, phế, thần môn, nội tiết. Các tình nguyện viên ấn vào các huyệt 3-6 lần mỗi ngày khi lên cơn thèm thuốc.
Kết quả sau 5 tuần ghi nhận 60% người cai thuốc lá thành công, các chỉ số độc chất của thuốc lá như nồng độ CO trong hơi thở và nicotin trong máu giảm rõ rệt. Một số người sau khi được châm cứu cho biết không còn cảm giác thèm thuốc hoặc “thấy sợ thuốc lá”. Tiến sĩ Tân cho biết 40% người tham gia cai nghiện không thành công vì nhiều lý do, trong đó phổ biến nhất là không tuân thủ thời lượng và liệu trình điều trị. Chỉ khoảng 3-4 người phản hồi tình trạng khó chịu và đau sau khi châm cứu nhưng thuyên giảm sau vài tiếng đồng hồ.
Kết quả nghiên cứu trên được báo cáo tại hội nghị “Ứng dụng thủy châm và nhĩ châm trong điều trị bệnh” do Viện Y dược học dân tộc TP HCM kết hợp với Bệnh viện Châm cứu Trung ương tổ chức. Tiến sĩ Tân lưu ý bệnh nhân áp dụng phương pháp nhĩ châm cần giữ cho tai sạch, tránh để ướt, tránh va chạm làm bong kim, cần theo dõi xem có bị nhiễm trùng, viêm đau hay không. Phản ứng thông thường sau khi nhĩ châm là thấy tai nóng, ấm, tê, đau, chướng, cơ thể ấm và rung các cơ mặt.
Liệu pháp này không áp dụng cho phụ nữ mang thai hoặc dễ bị sảy thai. Nhĩ châm không được khuyến khích đối với bệnh nhân tai bị sưng tấy, loét, eczema. Không dùng cho người bị bệnh nặng hoặc thiếu máu nặng.
Hút thuốc lá là vấn đề nghiêm trọng ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe cộng đồng, là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên toàn cầu. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) hiện có khoảng 1,3 tỷ người lớn hút thuốc, mỗi năm gần 4,9 triệu người chết vì bệnh do thuốc lá gây ra.
Tại Việt Nam, điều tra sức khỏe toàn quốc ghi nhận 49% tổng số nam giới hút thuốc, trong đó 65% ở độ tuổi 25-45. Số người hút thuốc lá thụ động ở nơi làm việc là 8 triệu, tại gia đình là 47 triệu người. Hàng năm có khoảng 40.000 người chết vì các bệnh liên quan đến thuốc lá.
Những năm gần đây Viện Y dược học dân tộc liên tục nhận được thư khen về cách phục vụ tận tâm của y, bác sĩ và nhân viên y tế Viện .
Một lời khen của bệnh nhân sẽ là động lực để nhân viên y tế cố gắng nhiều hơn tiếp tục thực hiện nhiệm vụ của mình. từ Tháng 01/2017, Viện Y dược học dân tộc thành phố Hồ Chí Minh nhận được 14 lá thư khen và thư cảm ơn về sự nhiệt tình, tận tâm của y, bác sĩ của Viện Y dược học dân tộc. Đây là tín hiệu cho thấy hiệu quả từ thực hiện đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh và hoạt động nâng chất lượng của Viện Y dược học dân tộc. Để có được những lá thư khen chân tình đó, là cả một quá trình.
Những bệnh nhân khi đến Viện điều trị bệnh đều thấy Viện Y dược học dân tộc là ngôi nhà của mình, mọi người từ đội ngũ nhân viên y tế của Viện đến các bệnh nhân ở từ vùng miền khác nhau, điều trị các loại bệnh: Tai biến mạch máu não, Tăng huyết áp, Đái tháo đường, Liệt 7 ngoại biên … mọi người đều vui vẽ, gần gũi, thân thiện.
Tập thể bệnh nhân khoa Cấp cứu Nội tim mạch và Thần kinh, phòng 106, gửi thư cảm ơn ngày 04/08/2017 đến Viện trưởng Viện Y dược học dân tộc thành phố Hồ Chí Minh đã có đội ngũ y tế rất chuyên nghiệp, chuyên môn giỏi, họ cảm ơn bác sĩ Phan Minh Thuận, Điều dưỡng Trương Thị Thùy Liên, hộ lý Trần Thị Thu Thủy đã giúp bệnh nhân yên tâm điều trị.
Thái độ nhiệt tình, ân cần, cởi mở của các y Bác sĩ, điều dưỡng là liều thuốc giúp người bệnh nhanh chóng bình phục. Những bức thư cảm động, đầy niềm tin và sự cảm ơn chân thành của người bệnh cũng là những động lực to lớn, để đội ngũ y, bác sĩ, điều dưỡng của Viện tiếp tục phát huy tinh thần, nâng cao trách nhiệm trong công việc điều trị người bệnh, không ngừng bồi dưỡng, trao dồi kiến thức chuyên môn, xứng đáng với lời Bác Hồ dạy “Lương Y Như Từ Mẫu”.
Bạn luôn trong trạng thái mong ngóng tới ngày được làm cha mẹ nhưng bác sĩ nói rằng vợ chồng bạn không có khả năng có con? Đừng bao giờ từ bỏ hy vọng vì hiện nay đã có nhiều phương pháp điều trị vô sinh hiếm muộn hiệu quả giúp biến giấc mơ đó thành hiện thực.
Viện Y dược học dân tộc đã trao niềm hy vọng đến nhiều gia đình hiếm muộn. Kết hợp châm cứu và uống thuốc Đông Y tại Viện sẽ tăng khả năng thụ thai.”Vô sinh do nội tiết nên chữa bằng Đông y, do thực thể nên chữa bằng Tây y.
Với niềm vui nhân đôi, các gia đình đã điều trị thành công, gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Viện Y dược học dân tộc:
Thư cảm ơn ngày 02/08/2017, gia đình chị Đoàn Thị Cẩm Tú, 40 tuổi ở Quận 7, đã điều trị khắp nơi từ Nam ra Bắc 12 năm, nhiều lần lấy trứng nhưng vẫn không có kết quả, sau khi được Bác sĩ Quan Vũ Ngọc điều trị châm cứu hỗ trợ thụ tinh trong ống nghiệm, kết hợp uống thuốc Đông y tại Viện Y dược học dân tộc, chị đã có tin vui và đến nay thai phát triển rất tốt, chị vẫn tiếp tục uống thuốc mong đợi ngày bé chào đời.
2. Chị Nguyễn Thị Thủy ở Nghệ An, vô sinh, đã làm thụ tinh trong ống nghiệm 5 lần, nhưng không thành công, gia đình chị tìm đến Viện châm cứu và uống thuốc Đông Y tại Viện, chị đã có niềm vui nhân đôi, mang song thai.Sau khi đậu thai, chị mong muốn được mẹ tròn con vuông, chị đến Viện và Bác sĩ Quan Vũ Ngọc vẫn đang cho uống thuốc dưỡng thai tại Viện. Chị gửi lời cảm ơn chân thành đến Viện Y dược học dân tộc đã giúp chị.
Điều đã tạo nên những trải nghiệm đặc biệt của tình mẫu tử mà không ngôn từ nào có thể diễn tả hết được; các nhân viên của Viện Y dược học dân tộc đã luôn luôn làm hết sức mình để mang đến dịch vụ và điều trị chăm sóc tốt nhất cho mọi người.