Các sản phẩm glycat hoá bền vững hay còn gọi là chất glycosyl hoá không cần men (enzyme), viết tắt là AGE (Advanced glycation end products), hiện được biết là thủ phạm gây lão hoá sớm và còn là nguyên nhân khởi phát hoặc làm nặng thêm các bệnh mạn tính không lây nhiễm như: Alzheimer, đái tháo đường, tăng huyết áp, vữa xơ động, viêm – thoái hoá khớp, loãng xương…
Ảnh Sức khỏe và Đời sống.
Riêng trong bệnh đái tháo đường typ2 chất AGE được biết là nguyên nhân của tổn thương mạch máu lớn và nhỏ (hậu quả là suy thận, tai biến mạch máu não, mạch máu tim, thiếu máu chi…). Theo Tác giả Sherry Young, có sự liên quan ở cấp độ tế bào và chất sinh hoá khác giữa tăng đường huyết kéo dài và tổn thương mạch máu nhỏ và mạch máu nuôi tim đã được biết. Trong số chúng, chất AGE và các thụ thể chuyên biệt của AGE đã được xác nhận có vai trò then chốt trong sự thay đổi giải phẫu và chức năng của thành mạch máu. Sự gắn kết giữa AGE vào RAGE (receptors for AGE) gây hoạt hoá tế bào, các tế bào đơn nhân chuyên biệt và tế bào nội mô, kết quả là sản sinh các cytokines gây viêm, và bộc lộ những phân tử kết dính và yếu tố mô.
Ảnh Sức khỏe và Đời sống.
Nguồn gốc gấy tăng AGE: – Ăn nhiều chất đường (Kẹo, bánh ngọt, nước ngọt có gas), thức ăn chế biến sẵn (thịt đóng gói, phô mát, thịt có hàm lượng mỡ cao đặc biệt thịt đỏ, bơ, margarine, thức ăn chiên và dầu). – Đường trong máu cao kéo dài, người bị hội chứng chuyển hoá (vòng bụng to, thừa cân, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu…), – Tuổi cao. Cách kiểm soát chất AGE: – Tập thể dục đều đặn (khoảng 150 phút / tuần), uống đủ nước, ngủ đủ giờ ban đêm (nên dành 15 phút ngủ buổi trưa), – Kiểm soát tốt huyết áp, đường huyết, giảm cân đối với người thừa cân – béo phì, – Tận dụng thức ăn chứa ít chất AGE: trái cây và rau, hải sản, đậu, bánh mì không béo, hamburger cho người ăn chay. – Cách nấu ăn hạn chế sản sinh chất AGE: nấu nhiệt độ thấp, luộc, hấp, kho, thức ăn tẩm nước xốt chua từ trái cây họ cam quít… – Khi cần thiết có thể sử dụng các dược liệu có chứa chất iridoids (có trong quả nhàu), hay một số chất có tác dụng chống lại sự hình thành AGE như vitamin C, benfotiamine (một dạng của vitamin B1 tan trong mỡ), Pyridoxal phosphate là dạng hoạt động của vitamin B6 (pyridoxine), aspirin… Tài liệu tham khảo:
– PubMed/NCBI – AGE Foundation – www.diafocus.com
Bs Trần Văn Năm – Nguyên phó viện trưởng, Viện Y Dược Học Dân Tộc thành phố Hồ Chí minh.
Sơ cứu bằng cách đặt nạn nhân nằm đầu thấp hơn chân, ấn nhân trung sau khi gọi cấp cứu; bác sĩ không khuyến khích dùng phương pháp dân gian châm cứu 10 đầu ngón tay.
Ảnh minh họa: News.
Bác sĩ Phạm Thị Dung công tác tạiĐơn vị Châm cứu, Viện Y Dược Học Dân Tộc TP HCM cho rằng ngất và xỉu là 2 khái niệm khác nhau. Xỉu là tình trạng mất ý thức không hoàn toàn, bệnh nhân có thể nghe và nhận biết xung quanh. Ngất là tình trạng mất ý thức đột ngột, bệnh nhân không nhận biết xung quanh. Có nhiều nguyên nhân gây ngất:
– Ngất do đối giao cảm (hay còn gọi là ngất đơn thuần), thường gặp và xảy ra ở mọi lứa tuổi. Yếu tố thúc đẩy gồm cảm xúc, mệt mỏi, mất máu, đứng lâu. Bệnh nhân thường hồi phục ý thức nhanh, trong khoảng từ vài giây đến vài phút.
– Ngất do tim mạch xảy ra khi nằm nghỉ, sau khi gắng sức hay có tiền sử bệnh tim như ngừng tim, rối loạn nhịp, hẹp động mạch chủ, động mạch phổi, phình bóc tách động mạch chủ, tăng áp động mạch phổi.
– Ngất do mạch máu não: Đột quỵ, thiểu năng động mạch sống nền, migrain, bệnh takayasu, ngất do xoang cảnh.
– Ngoài ra ngất còn do một số nguyên nhân khác như hạ huyết áp tư thế, tăng thông khí, ngất do ho, tâm lý…
Xử trí khi có người ngất xỉu:
Đầu tiên cần tiến hành sơ cứu. Đặt bệnh nhân nằm đầu thấp hơn chân, cho ngửi tinh dầu thơm, nới quần áo chật hoặc những chỗ thắt chặt khác. Ðể đầu quay sang một bên nhằm đề phòng tụt lưỡi vào cổ họng hoặc hít chất nôn vào phổi. Nếu thân nhiệt thấp hơn bình thường thì cho đắp chăn ấm, đồng thời gọi xe cấp cứu đưa bệnh nhân đến bệnh viện để xử trí tiếp theo và tìm nguyên nhân có hướng điều trị tiếp tục.
Phương pháp ấn Nhân trung trong sơ cứu ngất: Theo y văn, huyệt Nhân trung có tác dụng khai khiếu, thanh nhiệt, định thần chí. dùng trong điều trị méo miệng, tê môi trên, cấp cứu ngất. Phương pháp này đã được nghiên cứu có tác dụng. Lưu ý nếu nạn nhân ngất, đầu tiên cần tiến hành sơ cứu như trên và gọi xe cấp cứu ngay. Trong thời gian đó có thể sử dụng phương pháp ấn Nhân trung để hỗ trợ người bệnh tỉnh lại. Phương pháp này cần phải làm nhanh, mạnh, dứt khoát ở vị trí huyệt nằm giữa 1/3 trên và 2/3 dưới rãnh nhân trung.
Có một phương pháp thường được người dân áp dụng trong những trường hợp ngất xỉu là châm 10 đầu ngón tay (hay châm huyệt Thập Tuyên). Cách làm này được truyền rộng rãi trong dân gian, cho đến nay chưa có nghiên cứu nào chứng minh có hiệu quả khi cấp cứu ngất. Bác sĩ khuyến cáo châm đầu ngón tay nếu thực hiện một cách tùy tiện có nguy cơ gây nhiễm khuẩn cao, thậm chí dẫn tới nhiễm trùng huyết. Do đó không có khuyến cáo sử dụng trong điều trị ngất dù là nguyên nhân nào.
Theo bác sĩ Dung, Thập Tuyên là tập hợp huyệt nằm trên 10 đầu ngón tay. Vị trí huyệt nằm chính giữa 10 đầu ngón tay, cách đầu móng ngón tay 0,1 thốn. Theo Cẩm nang Châm cứu của Lưu Viêm Chủ, phương pháp châm huyệt Thập Tuyên hiệu quả trong điều trị các chứng bệnh nhức đầu, choáng váng, hôn mê, cơ thể quá nhiệt, trẻ con bị kinh phong, tê đầu ngón tay. Khi thực hiện, yêu cầu phải sát trùng vùng đầu 10 ngón tay, dùng kim châm cứu vô trùng châm thẳng vuông góc từ 0,1 đến 0,2 thốn hoặc sử dụng kim 3 cạnh vô trùng chích lễ máu tại huyệt.
Bác sĩ Dung lưu ý, kỹ thuật châm huyệt Thập Tuyên đòi hỏi dụng cụ và kỹ thuật đảm bảo vô trùng, do đó chỉ nên thực hiện ở bệnh viện bởi thầy thuốc. “Trường hợp nạn nhân ngất ở nhà, ngoài đường hoặc bất cứ nơi nào không có đủ điều kiện vô trùng mà thực hiện châm đầu ngón tay có thể gây nhiễm trùng cho người bệnh. Do đó không nên áp dụng”, bác sĩ nói.
Những nghiên cứu về tác động của âm nhạc lên sức khỏe
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về những ảnh hưởng tốt và xấu của âm nhạc tới sức khỏe trong những năm gần đây. Xin nêu một vài kết quả điển hình :
Bệnh nhân khi nghe nhạc của Vivaldi ( một nhà soạn nhạc người Ý ) sẽ chịu đựng cuộc mỗ tốt hơn. Sau đó, ở thời kỳ hậu phẫu, nghe nhạc sẽ giúp họ chịu đựng cơn đau tốt hơn, ít phải dùng đến thuốc giảm đau và an thần. Còn các phẫu thuật viên – khi nghe nhạc của Bach hoặc Mozart – sẽ mỗ nhanh hơn, ít sai sót hơn, đường khâu sẽ … đẹp hơn. Nghiên cứu nói trên được tiến hành ở bệnh viện Ohio ( Mỹ ). Cũng tại đây, các chuyên gia khẳng định rằng âm nhạc giúp làm chậm sự tiến triển của bệnh, giảm đáng kể những biến chứng phức tạp của bệnh, rút ngắn thời gian nằm viện.
Ảnh minh họa.
Trong lãnh vực bệnh nội khoa, một nghiên cứu tiến hành trên những bệnh nhân bị Migrain ( nhức nữa đầu ) được tiến hành ở Caliphornia ( Mỹ ) cho thấy bệnh nhân được nghe nhạc ( cùng với việc dùng thuốc ) sẽ giảm tần suất các cơn và thời gian các cơn đau đầu so với nhóm bệnh nhân có dùng thêm các biện pháp thư giãn và nhóm dùng thuốc đơn thuần.
Đối với trẻ sơ sinh đẻ non, âm nhạc giúp tăng cân nhanh hơn và khỏe hơn những bé chỉ được săn sóc tích cực.
Riêng với người viết bài này, âm nhạc ngoài tác dụng thư giãn khi làm việc mệt mỏi còn là một loại thuốc an thần cực kỳ hiệu quả cho những đêm trằn trọc mất ngủ. Còn các bạn độc giả thì sao ?
Âm nhạc tác động như thế nào ?
Âm nhạc giúp hạ huyết áp, giúp hô hấp tốt hơn, tăng cường quá trình trao đổi chất trong cơ thể, qua đó làm giảm Stress và tăng tiết chất Endorphine (một chất Morphine do cơ thể sản sinh nhằm làm giảm đau và căng thẳng) và chất S-IgA ( Globulin miễn dịch A ở nước miếng ) giúp mau lành bệnh, làm chậm nhịp tim và nhịp thở. Qua đó, nó cải thiện thành tích thể thao, cải thiện vận động ở những bệnh nhân đột quị hoặc những bệnh nhân bị Parkinson.
Các nhà nghiên cứu cho rằng cả hai bán cầu não đều có tham gia vào việc tiếp nhận âm nhạc. Khả năng thích ứng với âm nhạc của hệ thần kinh rất lớn, vượt lên cả sự tổn hại của một trong hai hoặc cả hai bán cầu não.
Trước đây, người ta thường đề cao giá trị của thể loại nhạc nhẹ ( pop, soul, blue,…) trong thư giãn và điều trị. Một vài chuyên gia còn khẳng định rằng việc được nghe hoặc ngân nga một loại nhạc đặc biệt yêu thích sẽ có kết quả tốt hơn là một loại nhạc bất kỳ. Thế nhưng các nghiên cứu gần đây lại đưa đến kết quả là thể loại nhạc hoặc sự yêu thích cá nhân tỏ ra không quan trọng bằng chính tiết tấu, giai điệu của bản nhạc đó. Ngoài ra, mỗi hoàn cảnh cụ thể chỉ thích hợp với một loại nhạc khác nhau mà chỉ có cá nhân người đó có thể chấp nhận. Cho nên, thay vì nghe nhạc nhẹ, trên thực tế có những người khi cảm thấy đầu óc quá nặng nề, không thể suy nghỉ được gì thêm, hiệu năng làm việc sút giảm liền vào phòng riêng và mở nhạc rock thật lớn. Theo họ giải thích, điều này sẽ giúp họ hưng phấn hơn, cỗ máy trí óc sẽ được “ bôi trơn “ tốt hơn.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, người ta cũng nhận thấy rằng những quãng nghỉ ngắn giũa bản nhạc ( nhạc gian tấu ) có tác dụng trấn tĩnh tốt hơn. Điều này đặc biệt rõ nhất ở những người có năng khiếu âm nhạc hoặc được đào tạo bài bản về âm nhạc. Các chuyên gia giải thích rằng có thể do họ học được cách phối hợp nhịp thở với các khúc nhạc. Từ đó, họ đã đưa ra giả thuyết về tác động tốt của âm nhạc lên sức khỏe là tạo ra được sự thay đổi có kiểm soát giữa hưng phấn và ức chế.
Nhận thức theo Y học cổ truyền.
Y thư từ ngàn xưa còn để lại cho thấy cổ nhân đã biết sử dụng đến sức mạnh của âm nhạc trong cuộc sống, trong thời bình và cả thời chiến. Thời Hán Sở tranh hùng, mấy vạn chiến binh thiện chiến của Tây Sở Bá vương Hạng Võ đã xếp giáo tan hàng chỉ sau một đêm được nghe khúc nhạc tiêu réo rắt của Trương Lương nói về nỗi nhớ quê nhà và người thân ở hậu phương.
Sách Hoàng đế Nội kinh là bộ y dược thư cổ đại của y học phương đông cũng đã bàn đến tính chất của âm nhạc theo phạm trù nhân thân khí hóa, tức là phân tích âm thanh theo lý luận ngũ hành và tạng tượng. Theo sách này, mỗi loại thanh và âm đều có quan hệ nhất định tới mỗi tạng phủ trong cơ thể (theo đông y) ứng theo luật ngũ hành, có thể khái quát như sau :
Tạng Can ứng với âm giốc ( Mộc nhạc ) : có tính cách huyền ảo, âm điệu vời vợi, vô thường, âm hưởng mênh mang, da diết.
Tạng Tâm ứng với âm chủy ( Hỏa nhạc ) : có âm ngôn khỏe khoắn, vui tươi, âm điệu sống động.
Tạng Tỳ ứng với âm cung ( Thổ nhạc ) : có âm điệu hồn nhiên, vô tư, ồn ào, mang âm hưởng lạc quan, tươi tắn và tràn đầy hy vọng.
Tạng Phế ứng với âm thương ( Kim nhạc ) có âm ngôn tha thiết và bi ai, âm điệu trầm bổng, ngọt ngào, mang âm hưởng thanh thoát, tao nhã.
Xem ra, việc chọn nhạc để nghe cho … khỏe không hề đơn giản. Nếu có loại nhạc giúp ta hưng phấn hơn, năng suất làm việc tốt hơn hoặc giúp giảm stress để mang lại sự cân bằng, thư giãn cho tinh thần thì cũng có loại nhạc khi nghe chỉ đem lại cảm giác tuyệt vọng, bế tắc, thậm chí nghe xong chỉ muốn … tự tử (!). Những người suy nhược tâm thể đặc biệt nhạy cảm với loại nhạc này.
Ths.BS Phan Minh Trí – Viện Y Dược Học Dân Tộc thành phố Hồ Chí Minh.
1. Ích lợi của thở đúng cách: Tập thở đúng cách và thường xuyên sẽ đem lại các tác dụng có lợi trong phòng, trị bệnh nói chung và bệnh đường hô hấp nói riêng:
Ảnh studyblue.
– Nhắc lại thành phần khí thở vào và thở ra bình thường:
Thành phần khí
Thở vào (%)
Thở ra (%)
Nitrogen
79
79
Oxygen
20 – 21
16
Carbon dioxide
0,04
4
Một ít khí khác và hơi nước
– Thở giúp cơ thể thải độc: đường thở thải 70% độc chất của cơ thể, nếu thở không đúng cách các cơ quan thải độc khác của cơ thể bị quá tải và cơ thể bị bệnh. – Giải toả sự căng thẳng: khi rối loạn cảm xúc (lo sợ, giận dữ, stress…) thường chúng ta sẽ thở nhanh, nông và cơ thể bị thiếu oxy… – Giúp thư giãn tâm – thể, tăng tư duy tích cực, kiểm soát được cảm xúc, – Làm dịu cơn đau: thở sâu kết hợp tự kỷ ám thị giúp giảm đau một phần, – Xoa bóp nội tạng, tăng cường sự tuần hoàn máu trong cơ thể, – Tăng trương lực cơ, đặc biệt cơ hô hấp, cơ tim, cơ bụng… – Tăng chức năng hệ miễn dịch: thông qua việc cung cấp dưỡng khí và chất dinh dưỡng đến nuôi các bộ phận các trách nhiệm sản sinh các tế bào miễn dịch (hạch bạch huyết, tuỷ xương, tuyến tùng…). – Hạn chế thay đổi vóc dáng, khung xương khi tuổi cao (lưng gù, vẹo, giảm giãn nở cơ lồng ngực), – Tăng chất lượng máu, đặc biệt là hồng cầu. – Cải thiện tiêu hoá và tăng hấp thu thức ăn. – Cải thiện hoạt động của hệ thần kinh: hệ thần kinh nhận đủ oxy sẽ hoạt động dẫn truyền và điều khiển cơ thể tốt hơn. – Giảm nhẹ gánh nặng của tim, có lợi khi phải gắng sức hoặc người bệnh suy tim. – Kiểm soát cân nặng: tăng oxy giúp đốt cháy mỡ dư, có lợi cho người thừa cân – béo phì; người gầy sẽ được nhận O2 và dưỡng chất đến các mô và tuyến đang bị “đói”. – Tăng nghị lực và sức bền bỉ của cơ thể, cải thiện sự phục hồi tế bào, ổn định tâm trạng. – Theo Dr. Otto Warburg (người đoạt giải Nobel y học năm 1931 về hô hấp tế bào) nêu một giả thuyết mới về bệnh ung thư: nguyên nhân gây ung thư hàng đầu là cơ thể thiếu oxygen.
2. Cách thở không đúng (không hiệu quả): – Thở nhanh và nông: theo Tạp chí Royal Society of Medicine thông báo các triệu chứng xảy ra: đau đầu, mệt mỏi, rối loạn giấc ngủ, lo lắng, đầy bụng, hồi hộp, chuột rút, chóng mặt, hoa mắt, – Nhốt hơi sau khi hít vào: đau đầu, khó tập trung, hay quên, khó thở, tê tay chân, đau ngực, tức ngực. 3. Thở đúng, khoa học: đây là cách thở 4 thời với thanh quản mở (thở theo phương pháp Dưỡng sinh của Bs. Nguyễn Văn Hưởng (nguyên Bộ trưởng Bộ Y Tế): Cách thở 4 thời với thanh quản mở: có hai hình thức tập thở: tĩnh (chỉ hít thở sâu, không tập động tác) và động (thở 4 thời trong khi thực hiện các động tác). Thở 4 thời gồm 4 giai đoạn: – Hít vào: chậm đều, tối đa, bụng căng, ngực nở, cùng một lúc chiếm ¼ thời gian; – Giữ hơi: tiếp tục hít vào, giữ căng các cơ lồng ngực, mặc dù không có không khí vào phổi bao nhiêu, chiếm ¼ thời gian; – Thở ra: nhẹ nhàng, không kìm, không thúc, chiếm ¼ thời gian; – Nghỉ: các cơ hô hấp buông lỏng, cơ thể trong trạng thái thư giãn, chiếm ¼ thời gian. 4. Lợi ích của mở thanh quản? – Phòng và trị các bệnh cấp và mạn tính đường hô hấp: viêm mũi – họng, viêm khí – phế quản, viêm phổi, hen phế quản, bệnh hổi mạn tính tắc nghẽn (COPD), lao phổi, Ung thư phổi. – Tạo được áp suất âm (thấp hơn áp suất khí trời) trong lồng ngực, máu sẽ dễ dàng về tim theo hệ thống tĩnh mạch, giúp nhẹ gánh nặng cho tim; – Tạo thuận lợi cho việc trao đổi O2 và CO2 giữa máu và phế nang đạt hiệu quả cao nhất; – Tăng cung cấp oxygen cho tế bào hoạt động tốt nhất, đặc biệt tốt cho tế bào não và hệ thần kinh – Giúp ổn định, tạo sự cân bằng giữa hưng phấn và ức chế của hệ thần kinh, giảm stress, phòng và trị chứng rối loạn lo âu. 5. Kết luận: – Luôn thực hành thở đúng cách mỗi khi có thể (tốt nhất là vào sáng sớm và trước khi ngủ), – Để đạt hiệu quả cao cần luyện tập kiên trì, đủ thời gian (trung bình 5 – 10 phút cho mỗi lần tập), – Tập trung, tự kỷ ám thị với suy nghĩ: “thở đủ oxygen sức khoẻ sẽ tốt hơn và bệnh tật chóng phục hồi”, “Ý ở đâu khí sẽ tới đó”. – Chọn không gian luyện tập đủ thoáng, ít tiếng ồn, tránh xa nơi khói bụi và đặc biệt không tập nơi có nhiều khói thuốc lá. – Phải bắt đầu tập thở để phòng và trị bệnh càng sớm càng tốt: “ tri bệnh khi chưa có bệnh.
Bs Trần Văn Năm – Nguyên phó viện trưởng, Viện Y Dược Học Dân Tộc thành phố Hồ Chí minh.
Trước những thông tin không mấy thuận lợi về việc sử dụng loại đường hóa học làm phụ gia thực phẩm, tâm lý chung của người tiêu thụ, đặc biệt người bị đái tháo đường, là quay tìm về với những sản phẩm thiên nhiên…
Cây cỏ ngọt – Ảnh: BS Phan Tấn Yên.
May thay, trong nhóm những chất tạo ngọt thiên nhiên, cây cỏ ngọt (sweetleaf) có nhiều ưu thế và đang được ưa chuộng nhất.
Cây cỏ ngọt còn được gọi là cỏ đường, cỏ mật hay cúc ngọt, có nguồn gốc Trung Mỹ. Ngày nay, cỏ ngọt cũng đã được trồng nhiều nơi. Ở Việt Nam cỏ ngọt được trồng tại Hà Giang, Hà Tây, Cao Bằng, Lâm Đồng.
Hoạt chất gây ngọt là những steviol glycoside, chủ yếu là stevioside và rebauside, có độ ngọt gấp 250-300 lần đường mía, chất ngọt này không bị nhiệt phân, có độ pH ổn định và không lên men được, nghĩa là không bị vi khuẩn, nấm men sử dụng.
Vì những stevioside trong cỏ ngọt không ảnh hưởng lên nồng độ glucose máu nên cỏ ngọt stevia có thể dùng làm phụ gia thực phẩm cho người ăn kiêng, ăn ít ngọt như người bị đái tháo đường.
Các quốc gia châu Á và Nam Mỹ đều công nhận và cho phép sử dụng stevia như một chất phụ gia. Người Brazil và Paraguay đã dùng để pha trà và thuốc. Trung Quốc xem cỏ ngọt như một dược liệu thiên nhiên rất tốt để giúp làm giảm cân, ăn ngon và trợ tiêu hóa.
Nhật Bản là quốc gia sử dụng cây cỏ ngọt nhiều nhất trên thế giới. Mỗi năm công nghệ thực phẩm ở Nhật tiêu thụ 700-1.000 tấn lá cỏ ngọt stevia. Một số lượng lớn Nhật phải nhập khẩu thêm từ Hàn Quốc, Đài Loan và Trung Quốc. Ở nhiều nước, người ta cho dùng chất ngọt stevioside trong kẹo cao su, bánh trái và trong các loại nước ngọt.
Có nhiều cách sử dụng cỏ ngọt stevia như: (1) phơi, sấy khô để có thể bỏ vô trà…, (2) tán bột lá khô để trộn vào bột làm bánh thay thế đường, (3) thay đường hóa học trong kỹ nghệ thực phẩm, (4) làm chất ngọt cho người ăn kiêng ít năng lượng và cho người bệnh đái tháo đường.
Thiết nghĩ, đây là một món quà “ngọt ngào” thiên nhiên bù lại cho người bệnh.
Đái tháo đường là một bệnh mãn tính gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm nếu không được chẩn đoán sớm và điều trị tích cực. Hiện nay đã có nhiều tiến bộ trong điều trị bệnh, trong đó xu hướng kết hợp giữa đông y và tây y nhằm làm tăng hiệu quả, giảm chi phí điều trị đang ngày được chú trọng.
Đái tháo đường là gì?
Đái tháo đường ( ĐTĐ ) là nhóm của các bệnh lý chuyển hoá, có đặc điểm là tăng đường huyết do sự thiếu hụt về tiết Insulin, về tác động của Insulin hoặc cả hai. Tăng đường huyết mạn tính kéo dài kéo theo những tổn thương, rối loạn chức năng, suy giảm các cơ quan khác nhau trong cơ thể, đặc biệt là mắt, thận, thần kinh, tim và mạch máu.
ĐTĐ thường được chia làm hai nhóm chủ yếu là ĐTĐ type 1 và ĐTĐ type 2, trong đó bệnh ĐTĐ type 2 chiếm đa số ( 85% -90% ).
Ảnh minh họa.
Tại sao ĐTĐ được xem là một thách thức của thế giới trong thế kỷ 21?
Hiện nay số người mắc bệnh ĐTĐ trên toàn thế giới xấp xỉ 300 triệu người trong đó tốc độ phát triển nhanh nhất là ở các nước đang phát triển. ĐTĐ cùng với bệnh lý tim mạch và ung thư là ba nguyên nhân gây tử vong hàng đầu tại Mỹ
Nguyên nhân gây tử vong do ĐTĐ thường gặp là bệnh mạch vành, bệnh mạch máu não, nhiễm trùng, suy thận mãn….Ngoài ra ĐTĐ còn có thể ảnh hưởng lên mắt gây mù mắt…
ĐTĐ không chỉ gây tăng chi phí cho việc điều trị của người bệnh mà còn ảnh hưởng đến xã hội thông qua những sản phẩm lao động bị giảm sút do nghỉ ốm, do tàn phế, do nghỉ hưu sớm, hoặc chết sớm vì bệnh tật. Ngoài ra ĐTĐ còn gây ra những gánh nặng về mặt tâm lý như stress, sự lo lắng của bản thân người bệnh, thân nhân họ và cả cộng đồng về tất cả các khía cạnh có liên quan đến bệnh.
Những ai cần được đi kiểm tra để phát hiện sớm bệnh ?
Bệnh ĐTĐ type 2 thường được phát hiện một cách tình cờ hoặc khi bệnh nhân có những biểu hiện của các biến chứng do bệnh ĐTĐ gây ra như: tê 2 chi dưới, nhiễm nấm ở bộ phận sinh dục, nhiễm trùng ở da, mờ mắt, đau thắt ngực, tai biến mạch máu não…Chỉ một số ít trường hợp bệnh được phát hiện do có biểu hiện của triệu chứng tăng đường huyết: ăn nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều, sụt cân nhiều.
Do đó những đối tượng như sau cần được kiểm tra đường huyết để phát hiện bệnh sớm:
– Tuổi trên 55, là yếu tố nguy cơ chung, nên tiến hành sàng lọc cho tất cả những người ≥ 55 tuổi.
– Tuổi từ 40-45, kèm theo một yếu tố nguy cơ mô tả dưới nay.
– Tuổi từ 35-40 tuổi kèm theo hai trong số các yếu tố nguy cơ được mô tả dưới đây:
+ Tăng huyết áp, HA ≥ 140/ 90 mmHg
+ Những người béo phì hoặc dư cân ( BMI ≥ 23 )
+ Có liên quan ruột thịt với người mắc bệnh ĐTĐ ( thế hệ cận kề )
+ Phụ nữ lứa tuổi ở vào giai đoạn quanh mãn kinh.
+ Phụ nữ có tiền sử thai sản đặc biệt như được chẩn đoán ĐTĐ thai kỳ; hoặc có tiền sử sinh con to, cân nặng lúc sinh > 4000g. Với người VN, một số nghiên cứu cho thấy nếu cân nặng của con ≥ 3600g đã phải coi là yếu tố nguy cơ mắc bệnh.
+ Những người đã từng được chẩn đoán rối loạn đường huyết lúc đói, hay rối loạn dung nạp glucose; người có các rối loạn chuyển hóa khác như rối loạn chuyển hóa lipid, rối loạn chuyển hóa acid uric, người có microalbumin niệu dương tính….
+ Người có nghề nghiệp tĩnh tại, ít hoạt động thể lực, có những thay đổi đột ngột về môi trường sống…
Người bệnh ĐTĐ type 2 cần được điều trị như thế nào?
Đối với mỗi người bệnh ĐTĐ điều có một chế độ điều trị riêng biệt để phù hợp với mức độ bệnh, đặc điểm sinh hoạt của mỗi người bệnh. Việc điều trị cũng cần phải toàn diện. Bên cạnh việc dùng thuốc cần phải có chế độ dinh dưỡng và tập luyện thể dục phù hợp với tình trạng bệnh và thuận tiện cho việc tuân thủ.
Đối với người bệnh ĐTĐ, nên kiêng hay hạn chế tối đa các loại đường hấp thu nhanh ( mức, nước ngot, bánh ngọt, trái cây khô …), nên ăn nhiều rau xanh sẽ làm giảm sự hấp thu đường và cholesterol sau ăn, giúp tránh táo bón. Đối với việc tập luyện, bệnh nhân nên tập các môn rèn luyện sự dẻo dai bền bỉ như đi bộ, di xe đạp, bơi lội, các bài tập dưỡng sinh,… nên tránh các môn đòi hỏi thể lực cao như cử tạ…. Bài tập nên có cường độ nhẹ nhàng lúc đầu và tăng dần theo thời gian. Tránh quá sức, và phải có sự theo dõi của thầy thuốc. Việc tuân thủ chế độ ăn và tập luyên đúng cách sẽ góp phần quan trọng trong việc kiểm soát đường huyết.
Ngày nay các thầy thuốc Đông Y khi điều trị bệnh nhân ĐTĐ type 2 sẽ tùy thuộc tình trạng của người bệnh mà quyết định chỉ dùng thuốc Tây y ( Glucophage, Diamicron, Amaryl, Mixtard…), hay thuốc Đông y ( Khổ qua, Lục vị tri bá, dây thìa canh…), hay kết hợp cả hai loại thuốc Đông y và Tây y nhằm làm tăng tác dụng hạ đường huyết, giảm các tác dụng phụ, giảm chi phí điều trị…Bên cạnh việc dùng các thang thuốc kinh điển ( Lục vị tri bá…) có thể gây bất lợi cho người sử dụng do phải sắc nấu, không tiện nếu phải đem xa… , các thuốc YHCT ngày nay còn có các dạng thuốc được bào chế theo phương pháp hiện đại ( dạng viên con nhộng, viên tròn… ) nhằm làm tăng tác dụng hạ đường huyết và dễ dàng sử dụng cho bệnh nhân hơn.
Việc điều trị ĐTĐ type 2 bằng các thuốc có nguồn gốc thiên nhiên ngoài tác dụng làm hạ đường huyết, còn có thể có một số tác dụng có ích khác trên người bệnh mà trong quá trình điều trị chúng tôi ghi nhận được như: giảm triệu chứng táo bón, giảm cảm giác nóng trong người, hồi hộp, đánh trống ngực, tiểu đêm, cải thiện giấc ngủ…
ThS. BS. Lê Ngọc Thanh – Viện Y Dược Học Dân Tộc thành phố Hồ Chí Minh.
(Trích từ trang thông tin điện tử Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh).
Trong những năm gần đây, với sự phát triển của y học, con người ngày càng có nhiều sự lựa chọn về thuốc cho việc điều trị bệnh đái tháo đường nhằm hạn chế các biến chứng của bệnh và kéo dài cuộc sống. Bên cạnh việc dùng thuốc, việc tập luyện và ăn uống đúng cách cũng góp phần làm tăng hiệu quả điều trị. Trong dân gian có nhiều loại thực phẩm vừa được dùng làm các món ăn ngon vừa có tác dụng hỗ trợ điều trị bệnh đái tháo đường. Dưới đây là một vài món ăn thường được sử dụng:
1. Củ cà rốt tươi vừa đủ, gạo tẻ 60g, nấu cháo ăn chia làm 2 buổi sáng và tối. Dùng cho những người bệnh đái tháo đường có triệu chứng đói ăn nhiều. Các nghiên cứu gần đây cho thấy trong củ cà rốt có chất insulin thực vật, có khả năng làm giảm 1/3 đường của máu.
2. Món ốc bung củ chuối (thành phần: ốc bươu hay ốc nhồi, thịt lợn ba chỉ, đậu phụ rán, củ chuối hột non, nghệ giã nhỏ vắt lấy nước, quả khế, cơm mẻ…). Dùng ốc ngâm trong nước gạo cho ra hết nhờn, rửa sạch, khều lấy đầu, bỏ ruột. Thịt lợn cắt mỏng. Ướp ốc và thịt với cơm mẻ và nước nghệ. Củ chuối thái mỏng, ngâm nước cho ra hết nhựa rồi cho vào nồi ninh nhừ. Nấu chung các thứ, nêm mắm muối. Theo quan điểm Đông y thì ốc có vị nhạt, tính hàn, không độc dùng để trừ thấp nhiệt, tiêu thũng, thông lâm (sỏi). Con ốc và nước ốc dùng để giải độc rượu, trị chứng tiêu khát (đái tháo đường). Củ chuối hột có tính chát và thu liễm, dùng để trị bệnh tiêu khát. Thịt lợn và đậu phụ là những chất protid cần dùng trong thực đơn của người đái tháo đường. Mùi vị của món ăn này rất đặc biệt, làm giảm cảm giác khát nước, đói bụng của người đái tháo đường.
3. Củ mài 30g, bí đao 100g, lá sen 60g. Lá sen sắc lấy nước, bỏ cái, nấu với củ mài và bí đao thành cháo, ăn ngày một lần. Củ mài (tên thuốc là Hoài sơn) là một vị thuốc có vị ngọt, tính bình có nhiều tác dụng, một trong số đó là dùng để chữa chứng tiêu khát. Các nghiên cứu ở Nhật Bản cho thấy củ mài có khả năng làm giảm đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường. Trong khi đó lá sen và bí đao là những thực phẩm có tác dụng thanh nhiệt, giảm khát rất tốt. Ngoài ra lá sen còn có tác dụng an thần, chữa mất ngủ.
4. Củ mài 60g, tụy heo 1 cái, Sinh địa 30g. Sắc tụy heo trước 30 phút rồi cho thuốc vào cùng sắc. Uống nước và ăn thịt có thể thay cho bữa ăn, dùng liên tục từ 15-20 ngày. Theo Đông y, Sinh địa là một trong những vị thuốc thường được sử dụng do có nhiều công dụng khác nhau như thanh nhiệt, bổ huyết… Các nghiên cứu dược lý cho thấy nước sắc sinh địa có tác dụng kháng viêm, giảm đường-huyết, giảm huyết áp… Kinh nghiệm từ xưa hay sử dụng tụy heo vừa là một món ăn vừa là một vị thuốc dùng để chữa chứng tiêu khát khi cùng phối hợp các loại thức ăn khác như xào với củ cải, hẹ, mướp đắng… Một số thử nghiệm ở Nga gần đây cho thấy tế bào tụy tạng heo có khả năng giúp bệnh nhân đái tháo đường sản xuất được insulin.
5. Hoàng kỳ 30g, Củ mài 60g. Hoàng kỳ sắc còn 300ml bỏ xác, cho bột Củ mài vào trộn đều nấu cháo ăn 1-2 lần mỗi ngày. Hoàng kỳ là một vị thuốc có vị ngọt tính ấm, có tác dụng bổ khí. Tác dụng dược lý của Hoàng kỳ là làm tăng cường miễn dịch của cơ thể, thúc đẩy quá trình chuyển hóa của cơ thể, hạ áp…
6. Dùng quả mướp đắng tươi từ 1-2 trái nấu canh ăn hằng ngày. Có thể nấu chung với thịt heo để dễ ăn. Ngoài ra có thể dùng mướp đắng thái mỏng, sấy khô, hãm uống như nước trà. Mướp đắng có vị đắng tính lạnh, có tác dụng trừ nhiệt, làm sáng mắt, giải phiền khát… Ở nhiều nước trong khu vực (Philippines, Trung Quốc, Việt Nam…), mướp đắng được sử dụng như một vị thuốc để điều trị bệnh đái tháo đường rất hiệu quả. Ngoài ra các nghiên cứu của Nhật Bản còn cho thấy mướp đắng có khả năng hạn chế sự phát triển của tế bào ung thư và kéo dài tuổi thọ của người bệnh ung thư.
Mướp đắng hay còn gọi là khổ qua.
Trên đây là một vài món ăn thông dụng có thể góp phần hỗ trợ điều trị bệnh đái tháo đường. Chế độ ăn sẽ góp phần quan trọng trong hỗ trợ điều trị bệnh đái tháo đường, có một số trường hợp chỉ với việc điều chỉnh chế độ ăn, tập luyện đúng cách cũng đã có thể ổn định được đường-huyết, nhất là đối với những trường hợp mới mắc, mức độ nhẹ, chưa có các biến chứng nguy hiểm.
ThS. BS. Lê Ngọc Thanh – Viện Y Dược Học Dân Tộc thành phố Hồ Chí Minh.
“Giá tiền 1 kg sừng tê giác dạng bột ở Việt Nam là khoảng 60.000 USD, tuy nhiên giá trị thật sự cũng không hơn gì một …cái móng tay người vì cấu tạo chủ yếu của sừng tê chỉ là chất sừng như tóc và móng tay người không hơn không kém” Đó là kết luận của Tổ chức Các loài vật hoang dã Quốc tế (CWI) đưa ra mới đây. Cũng theo tổ chức này, chỉ còn khoảng 26.000 con tê giác hiện đang sinh sống ở Châu Phi và Châu Á, trong đó chỉ còn vài trăm con còn sống ở Indonesia (Java và Sumatra). Theo Quỹ Quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF), số cá thể tê giác bị bắn chết ở Nam Phi đã lên đến 3000% (!) so với năm 2007. Năm 2011, cá thể tê giác cuối cùng ở Việt Nam được tuyên bố là đã chết trong vườn quốc gia Cát Tiên. Ở Việt Nam, WWF và Mạng lưới giám sát buôn bán động vật và thực vật hoang dã Quốc tế (TRAFFIC) đã phối hợp mở Chiến dịch chống buôn lậu sừng tê giác vào Việt Nam từ tháng 7.2012 đến tháng 6.2013 với 2 mục tiêu chính là thông qua cam kết chống buôn bán trái phép sừng tê giác và thông tin đại chúng về tác dụng thật của sừng tê giác, từ đó tiến tới chấm dứt sử dụng các sản phẩm từ sừng tê giác. Tuy vậy, việc thực hiện chưa đủ mạnh để có thể ngăn chặn triệt để, đồng thời nhận thức của người dân về bảo tồn thiên nhiên, giá trị của đa dạng sinh học, hiểu biết các văn bản pháp luật vẫn còn rất hạn chế. Và quan trọng hơn là thói quen sử dụng các sản phẩm từ động vật hoang dã, đặc biệt là sự cuồng tín hoang đường về một loại thần dược chữa được những bệnh hiểm nghèo (ung thư) là lý do khiến việc buôn bán sừng tê giác trở thành một hoạt động siêu lợi nhuận. Vậy ta hãy xem qua những tác dụng của sừng tê để thấy có đáng để loài vật này bị săn lung gắt gao đến thế không.
Vì hiếm nên quí?
Thật ra không phải đến bây giờ sừng tê giác mới trở thành dược phẫm quí hiếm. Thời nhà Hán ở Trung Quốc, tê giác đã bị giết rất nhiều để lấy sừng chữa bệnh và làm vật phẩm triều cống. dần dần, nó còn trở thành một vật trang sức quí giá như làm cán dao găm, chén uống rượu,… Theo sự giao thương từ con đường tơ lụa nổi tiếng, các lái buôn nhập sừng tê từ Sumatra để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của Trung Quốc dùng chữa bệnh sốt nhiệt đới. Có lẽ đây là phương thuốc hiệu nghiệm vào thời đó nên đã được ghi chép vào các y văn cổ, điển hình là “Bản Thảo Cương Mục” của danh y Lý Thời Trân. Theo thời gian, người ta “phát hiện” thêm nhiều tác dụng chữa bệnh khác của sừng tê, mà nổii bật là tác dụng cường dương (!) Tuy vậy, điều trớ trêu là cho đến nay vẫn chưa có tài liệu nào ở Trung Quốc từ cổ chi kim đề cập đến việc dùng sừng tê như một phương thuốc làm tăng khả năng tình dục. Người ta cho rằng đây chỉ là lời đồn thổi do các lái buôn tạo ra để tiêu thụ được mặt hàng đặc biệt này.
Sừng tê giác theo y học
Theo yhct, sừng tê giác có vị đắng, mặn, tính lạnh, không độc, vào 2 kinh Tâm và Can. Có tác dụng thanh huyết nhiệt, giải độc, an thần, giảm đau, tăng cường sức khoẻ. Yhct dung chữa hôn mê, co giật và các chứng xuất huyết do huyết nhiệt, ung độc, hậu bối,… Những người cơ thể có tính hàn, không bị bệnh ôn độc và phụ nữ có thai không được dùng. Sừng tê giác được sử dụng trong rất nhiều bài thuốc cổ phương trị các chứng viêm nhiệt, các trường hợp sốt cao, co giật, chảy máu cam, ung nhọt,…Danh y Tuệ Tĩnh và Hải Thượng Lãn Ông cũng đã ghi nhận những công dụng của sừng tê trong các tài liệu của mình.
Cách dùng thường là mài với nước nóng trong dụng cụ bằng sành sứ thô ráp cho tới khi nước mài trở thành dung dịch trắng đục như sữa, hoặc tán bột mịn rồi uống, mỗi ngày từ 0,5 – 1 gam. Có thể hoà bột sừng với nước sắc thuốc hoặc trộn chung với các loại bột thuốc khác rồi làm thành viên.
Sừng tê giác có chứa keratin, các dẫn xuất guanidine, carbonat calcium và phosphate calcium. Cho đến nay vẫn chưa có bất kỳ một công trình nghiên cứu khoa học lâm sàng nào chứng minh các tính chất chữa bệnh của sừng tê theo y văn cổ. Phải chăng vì nó quá đắt tiền và quá hiếm? Trong một cố gắng chứng minh các tính chất trị liệu của sừng tê chỉ là chuyện hoang đường, hãng dược phẫm Hoffmann-LaRoche đã tiến hành một nghiên cứu dược lý về tác dụng invitro của sừng tê năm 1983 và đưa ra kết luận là không tìm thấy bất kỳ hoạt chất nào có tác dụng chữa bệnh. Đây cũng là kết luận từ một nghiên cứu của Trường Đại học Trung quốc ở Hong Kong năm 1990. Như vậy, việc dùng sừng tê để trị bệnh cho đến nay vẫn chỉ dựa vào lời đồn đại, những truyền thuyết và kinh nghiệm cá nhân, lâu dần trở thành niềm tin chứ hoàn toàn không có bất cứ cơ sở khoa học nào.
Bs. Phan minh Trí – Viện Y dược học dân tộc thành phố Hồ Chí Minh.
Trích báo Thuốc và Sức Khỏe (số 238 – Tháng 11/2015)
Ngày 10/11/2015, tại Viện Y Dược học Dân tộc TP. Hồ Chí Minh, Bộ Y tế tổ chức Hội nghị “Hướng dẫn triển khai đánh giá chất lượng bệnh viện và khảo sát hài lòng người bệnh, nhân viên y tế năm 2015”. PGS.TS. Lương Ngọc Khuê, Cục trưởng Cục Quản lý Khám, chữa bệnh, ThS. Nguyễn Ngọc Tuấn, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Y Dược Cổ truyền, Bộ Y tế đồng chủ trì Hội nghị.
Hội nghị có sự tham dự của các đồng chí lãnh đạo một số Cục, Vụ thuộc Bộ Y tế, đại diện 31 Sở Y tế khu vực phía Nam, đại diện các bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế, các bệnh viện đa khoa tỉnh, các bệnh viện hạng 1, các bệnh viện Y Dược cổ truyền và một số bệnh viện tư nhân khu vực phía Nam (từ Quảng Nam trở vào).
Cây Lược vàng (LV) có tên khác là cây Lan vòi, tên tiếng Anh: Basket plant (Cây giỏ, vì được trồng trong giỏ) và tên La tinh: Callisia fragrans (Lindl.) Woods., thuộc họ Thài lài (Commelinaceae).
1. Cây LV có chứa những chất gì? Thành phần hoá học: (theo Gs.Ts. Nguyễn Văn Hùng và Cs., Viện Hoá sinh biển VN, Nghiên cứu thành phần hoá học của cây LV). Nhóm nghiên cứu đã phát hiện ra sự có mặt của lớp chất ecdysteroit trong cây LV và đã phân lập được 19 hợp chất ecdysteroit từ các bộ phận lá, thân và chồi nhánh cây trong đó có 4 chất ecdysteroit mới là turkesterone2-O-β-D-glucopyranoside (CFLW19.4) từ lá cây và callecdysterol A (CFT3), callecdysterol B (CFT5) và callecdysterol C (CFT8) từ thân cây. 2. Cây LV có tác dụng gì đối với cơ thể? Nhóm chất ecdysteroid được nghiên cứu in vitro (ngoài cơ thể sống, trong ống nghiệm) ghi nhận có nhiều hoạt tính sinh học như: – Gây độc trên tế bào ung thư, – Kháng viêm, kháng sinh, chống oxy hoá, huỷ gốc tự do (gốc tự do gây tổn thương đến tế bào của cơ thể). – Ức chế enzyme alpha-glucosidase (có tác dụng hạ đường huyết), – Kích thích tế bào lympho (tăng sức đề kháng của cơ thể). 3. Cách sử dụng cây LV làm thuốc: Nên chọn những cây có ít nhất 9 – 10 đốt trở lên (không ngắn dưới 20cm), và có màu tím sậm để hoạt chất có trong cây sẽ đạt mức tối đa. Thường LV có thể dùng đường uống hoặc xoa đắp bên ngoài. Cách 1: dùng đường uống – Dùng lá tươi: rửa sạch, đâm hoặc nhai nhuyễn với ít muối uống. – Liều thường dùng: thường khoảng 5 – 10 lá/ngày tuỳ tuổi và cân nặng. – Toàn cây LV, cắt nhuyễn, phơi hoặc sấy khô (lưu ý dù khô nhưng vẫn còn màu xanh của lá, không phơi hoặc sấy quá khô cây chuyển sang màu vàng sẽ mất hết tác dụng trị bệnh) dùng nấu uống uống với liều từ 15 – 20 g/ ngày. – Toàn cây cắt nhuyễn ngâm trong rượu nếp loại tốt (không pha cồn) sau khoảng 1 tháng khi nước có màu hơi đỏ như rượu vang có thể uống được, liều từ 10 ml x 2 lần ngày. Có thể tăng dần tuỳ bệnh và sự dung nạp của cơ thể. Cách 2: dùng ngoài đường uống (xoa, đắp) trong trường hợp bệnh ngoài da, viêm – sưng khớp, bong gân, bầm máu… – Toàn cây, thái mỏng và ngâm trong rượu hoặc cồn 700 sau vài tuần, chiết lấy phần nước dùng bôi ngoài. – Toàn cây đâm vắt lấy nước để giữ trong tủ lạnh, bã được phơi hoặc sấy khô, phần bã này được ngâm trong dầu thực vật (dầu dừa, ô liu, dầu đậu phộng) sau 2 tuần sẽ lọc bỏ bã lấy phần dịch trộn chung với phần nước vắt (đã giữ lạnh) cho vào lọ thuỷ tinh màu tối, bảo quản nơi thoáng mát. – Hoặc cắt toàn cây LV thành đoạn nhỏ, cho hết vào nồi trộn với dầu thực vật (dầu dừa, dầu đậu phộng, dầu ô liu) vừa đủ, đun ở nhiệt độ khoảng 400c trong vài giờ. Sau đó lọc qua gạc lưới bỏ bã và cho hỗn dịch vào trong lọ thuỷ tinh màu tối, bảo quản nơi mát sẽ dùng dần. Cách 3: dạng thuốc mỡ bôi ngoài da: Cắt nhỏ toàn cây LV và nghiền thật nhuyễn, sau đó trộn với vaselin hoặc bột nhão để tạo thành hỗn hợp theo tỉ lệ 2:3 tạo thành khối thuốc mỡ và cho vào lọ thuỷ tinh màu đậm, giữ nơi mát. 4. Cây Lược vàng có độc tính không? Thông thường loại cây có dược tính (có tác dụng trị bệnh) ít nhiều sẽ có độc tính, nhưng qua các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy độc tính của LV rất thấp. Cụ thể Ts. Trịnh Thị Diệp, Viện Dược liệu, thông báo kết quả nghiên cứu độc tính cấp của LV xác định liều LD50 (LD50: liều gây chết 50% số vật thí nghiệm) = 2430 g dược liệu tươi/kg thể trọng và liều đang được nhiều người sử dụng trong chữa bệnh hiện nay là 5-6 lá tươi/ ngày, chỉ xấp xỉ bằng 1/1000 LD50. 5. Vậy sử dụng cây LV trị bệnh gì? Hiện cây LV chưa có tên chính thức trong Dược điển, chỉ dùng trị bệnh theo kinh nghiệm và một số tác giả đã ghi nhận mang tính chất quan sát, thu thập ý kiến của người sử dụng thông báo kết quả tốt khi uống trị một số bệnh: tiêu hoá tốt hơn, cắt cơn đau dạ dày, giảm đau mỏi cơ – xương – khớp, ổn định huyết áp…; bôi bên ngoài: chống tiết dịch, giảm ngứa, sưng đau trong một số bệnh ngoài da, chấn thương, bong gân…Thực vậy, điểm chung của đa số các bệnh khó như bệnh mạn tính không lây như: tăng huyết áp, đái tháo đường, vữa xơ động mạch, gout, viêm khớp do thấp, viêm ruột – dạ dày, viêm da dị ứng và bệnh ung thư …có một số biểu hiện cùng đồng hành với quá trình bệnh lý là: – Viêm vô khuẩn (không có vi trùng), hoặc viêm do nhiễm khuẩn cơ hội, – Sản sinh quá nhiều gốc tự do nên tổn hại đến tế bào và chức năng hoạt động bình thường của cơ thể, – Sức chống đỡ (sức đề kháng) với yếu tố gây bệnh suy giảm, – Môi trường cơ thể bị nhiễm acid. Qua kinh nghiệm sử dụng thực tế có kết quả tốt của nhiều người bệnh và kết quả nghiên cứu in vitro, cho thấy cây LV gây: độc trên tế bào ung thư, có tính chống viêm, kháng sinh, chống oxy hoá, trung hoà gốc tự do, hạ đường huyết, tăng sức đề kháng, kiềm hoá môi trường cơ thể…nên rõ ràng cây LV chắc chắn có tác dụng ít nhiều với các bệnh kể trên. Tuy nhiên, hiệu quả trị bệnh của cây LV còn tuỳ thuộc vào độ nặng của bệnh, sự đáp ứng của cơ thể và liều lượng sử dụng thích hợp ra sao? Chúng ta phải tiếp tục chờ đợi kết quả của những nghiên cứu có giá trị khoa học được tiến hành trong thời gian sắp tới. 6. Sự quái ác của bệnh ung thư và cây LV có trị được ung thư không? Mỗi năm, Việt Nam có 70.000 người chết do bệnh ung thư, có 200.000 người bệnh mới bị ung thư, con số này ngày càng gia tăng (theo Dự án Phòng chống Ung thư Quốc gia). Như chúng ta biết, có hơn 200 loại ung thư khác nhau trên cơ thể của con người. Phần lớn ung thư biểu hiện ở dạng khối u ác tính, khác với u lành tính (thường phát triển chậm, tại chỗ, có vỏ bọc). Điều đáng sợ nhất của khối u ác tính là tính xâm lấn vào các tổ chức xung quanh hoặc di chuyển tới hạch bạch huyết, các cơ quan ở xa và hình thành các khối ung thư mới, tiếp tục xâm lấn, tàn phá các tế bào, các tổ chức của cơ thể. Đây chính là hiện tượng di căn của tế bào ung thư, nếu không được điều trị tích cực và kịp thời người bệnh sẽ bị tử vong là không tránh khỏi. Nhắc lại đặc tính quái ác và nguy hiểm của ung thư để cho thấy rằng việc điều trị bệnh này chắc chắn không đơn giản, cần phối hợp nhiều biện pháp cả Tây – Đông y và không thể chỉ đơn độc dựa vào một vài loại cây thuốc, trong đó có cây LV, mà trị khỏi được bệnh ung thư. Lưu ý sử dụng: – Không nên uống cây LV cùng một lúc với các thuốc khác đặc biệt tân dược; – Không nên dùng dạng rượu LV trên người bị viêm – xơ gan, tăng huyết áp hoặc tăng đường huyết chưa kiểm soát tốt, người không uống được rượu; – Vì LV có tính mát nên những người có cơ địa lạnh (sợ lạnh, dễ tiêu chảy) không uống nước ép tươi LV vào buổi tối; – Cần tham khảo ý kiến của thầy thuốc trước khi sử dụng LV để trị bệnh. – Trẻ em dưới 5 tuổi ưu tiên dùng bôi hoặc đắp ngoài.
Bs Trần Văn Năm – Nguyên phó viện trưởng Viện Y Dược Học Dân Tộc thành phố Hồ Chí Minh.
theo (http://bstranvannam.blogspot.com/2015/05/cay-luoc-vang-tri-uoc-benh-ung-thu-khong.html)