Trang chủ Blog Trang 146

Điều trị bệnh zona (Dời Leo) bằng Y Dược Cổ Truyền (YDCT)

Ảnh minh họa.

Có lẽ mọi người lo lắng nhất khi bị bệnh zona (Dời leo, herpes zoster) là những biểu hiện các bóng nước ngoài da, một trong những bệnh thường gặp ở những người cao tuổi có sức đề kháng giảm. Tuy nhiên, người trẻ tuổi với tổng trạng không suy nhược cũng thỉnh thoảng có thể mắc phải.

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

1. Nguyên nhân gây bệnh: Do vius có tên varicella zoster tấn công vào cơ thể.
2. Biểu hiện của bệnh:
– Cảm giác đau rát vài ngày (lúc này chưa có các mụn nước xuất hiện, rất dễ nhằm với đau dây thần kinh liên sườn, đau do nguyên nhân khác) trước khi xuất hiện các bỏng nước trên mặt da, mọc thành từng cụm đường kính trung bình từ 2 – 3 cm, có thể lan nhanh và nổi thành từng mảng to. Vị trí của các bóng nước nằm trên vùng da chi phối của dây thần kinh bị bệnh.
– Có thể sốt nhẹ chung quanh 38 độ C kèm nhức mỏi cơ như các dấu hiệu của một loại virus cảm cúm thông thường.
– Dấu hiệu đặc trưng là đau, buốt, bỏng rát như bỏng lửa nơi các bỏng nước tương tự như bị chấn thương hoặc mụn nhọt sắp sửa mọc.
– Bệnh thường xảy ra vào mùa mưa, thời tiết lạnh kèm độ ẩm không khí cao. Đây cũng là thời điểm xảy ra bệnh do các loại siêu vikhuẩn như thuỷ đậu, sởi, quai bị…
– Các bóng nước kéo dài từ 15 – 20 này, khô dần và tróc ra để lại sẹo mất sắc tố melatonin nên sẹo có màu trắng. Đau sẽ giảm dần nhưng không khỏi hẳn có thể đau kéo dài từ 6 tháng đến 1 năm.
3. Phương pháp điều trị bằng YDCT:
Nguyên tắc chung: kháng sinh, chống viêm, chống bội nhiễm (nhiễm khuẩn cơ hội), tăng thải độc (đường đại – tiểu tiện), tăng sức đề kháng và điều trị càng sớm hiệu quả càng cao.
– Chăm sóc: nghỉ ngơi, ăn đủ chất (đặc biệt sinh tố B, C, A…có trong rau quả tươi), uống nhiều nước (khoảng 2 – 2,5 lít/ngày).
– Bôi ngoài: dịch chiết Hoàng liên, Tô mộc, tinh dầu mù u…
– Thuốc uống trong: thuốc Nam (Rau má, cỏ Mần trầu, Cỏ mực, Kim ngân hoa, Rễ tranh, Sài đất…; Chế phẩm (Toa căn bản, Thanh nhiệt tiêu độc – f…); Thuốc cổ phương (Nhân sâm bại độc gia giảm, Kinh phòng bại độc thang).
4. Kết quả:
Qua nhiều năm áp dụng quy trình điều trị trên, chúng tôi đã giúp người bệnh hạn chế được di chứng đau, rút ngắn thời gian tổn thương trên da, trong nhiều trường hợp nhẹ và khởi đầu điều trị sớm, không phải sử dụng đến các thuốc diệt virus tân dược như acyclovir, famciclovir, hay valacyclovir.

Bs Trần Văn Năm – Nguyễn phó viện trưởng Viện Y dược học dân tộc thành phố Hồ Chí Minh.

Hội thảo khoa học chủ đề “ Thành tựu khoa học của Châm cứu Việt Nam” và đào tạo y khoa liên tục năm 2015

Ngày 23/10/2015 tại Viện Y dược học dân tộc Tp. Hồ Chí Minh (273, Nguyễn Văn Trỗi, Phường 10, Quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh) đã diễn ra hội thảo khoa học chủ đề “ Thành tựu khoa học của Châm cứu Việt Nam” và đào tạo y khoa liên tục năm 2015.

1

 

Hội thảo vinh dự được đón tiếp PGS.TS PHẠM VŨ KHÁNH – Cục trưởng Cục quản lý Y dược cổ truyền Bộ y tế; PGS TS NGUYỄN TẤN BỈNH – Bí thư Đảng ủy, Giám đốc sở y tế TP Hồ Chí Minh; ThS TRẦN VĂN XỒI – Phó bí thư thường trực Đảng ủy Sở y tế; GS TS NGHIÊM HỮU THÀNH – Giám đốc Bệnh viện Châm cứu Trung ương; BS LÊ HÙNG – Chủ tịch hội Đông y thành phố; PGS TS LÊ ANH THƯ – Phó chủ tịch Hội Thấp khớp học Việt Nam và sự hiện diện của các đồng chí là lãnh đạo Viện Y Dược học dân tộc, Bệnh viện Y Học cổ truyền và thường trực tỉnh hội Hội Đông Y các tỉnh thành khu vực phía Nam.

4
GS TS Nghiêm Hữu Thành– Giám đốc Bệnh viện Châm cứu Trung ương.
7
PGS TS Lê Thanh Thư – Phó chủ tịch Hội Thấp khớp học Việt Nam
8
TS.BS. Nguyễn Thị Tân – Trưởng Bộ môn Y học cổ truyền Đại học Y Dược Huế.
11
BS Lê Hùng – Chủ tịch hội Đông y thành phố Hồ Chí Minh.
12
TS BS Ngô Anh Dũng – Chuyên gia Viện Y Dược Học Dân Tộc thành phố Hồ Chí Minh.
13
TS BS Trương Thị Ngọc Lan, Phó trưởng phòng Đào Tạo – Nghiên Cứu Khoa Học – Chỉ Đạo Tuyến.
14
Bs CKI Huỳnh Nguyễn Lộc – Bí thư Đảng Ủy, Viện Trưởng Viện Y Dược Học Dân Tộc thành phố Hồ Chí Minh.

18

PGS.TS.BS. Phạm Vũ Khánh – Cục trưởng cục Y Dược Cổ Truyền – Bộ Y tế.      Hội thảo thu hút hơn 400 người tham dự với nhiều chuyên đề bổ ích. 
Đặc biệt tại phần giao lưu các vấn đề về Châm cứu, cả hội trường đã rất xúc động khi nghe phần chia sẻ nghẹn ngào của bệnh nhân Thảo Viên (khoa Nội Tim mạch – Thần kinh) về sự biết ơn sâu sắc của bản thân đối với GS TS NGHIÊM HỮU THÀNH (Giám đốc Bệnh viện Châm cứu Trung ương). Đó là vị thiên thần áo trắng mà ngay từ lần châm cứu đầu tiên đã giúp cô gái này đứng dậy, bước đi sau 2 tuần nằm trên giường do bệnh lý mạch máu não, để đón chờ nhiều hy vọng trong cuộc sống ở tương lai phía trước. 

15 16

      Hội thảo nhằm tạo điều kiện giao lưu, trao dồi y đức, bồi dưỡng, cập nhật và đào tạo liên tục chuyên môn nghiệp vụ, trong lực lượng thầy thuốc y học cổ truyền, và cán bộ viên chức ngành y học cổ truyền, góp phần đẩy mạnh công tác khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe người dân.

6 5

191

Chữa liệt mặt ngoại biên bằng châm cứu

Liệt mặt ngoại biên là gì?
Liệt mặt ngoại biên (LMNB) còn gọi là liệt dây thần kinh số 7 hay Bell’s palsy  (tiếng Anh), theo tên Charles Bell, nhà giải phẫu người Scotland ở thế kỷ thứ 19, người đầu tiên mô tả dây thần kinh này.
Gọi là liệt ngoại biên để phân biệt với liệt trung ương có nguyên nhân ở não bộ, trong bài viết này chỉ đề cập đến mặt ngoại biên vì bệnh thường gặp và có tỉ lệ lành bệnh cao.
1

Bệnh xảy ra khi thời tiết thay đổi nhanh từ nóng sang lạnh hoặc ngược lại, nhưng tại phía nam Việt Nam tỉ lệ mắc bệnh nhiều vào những ngày tháng 11 đến tháng 2 Dương lịch hàng năm. Thời điểm khác trong năm vẫn có bệnh nhưng tỉ lệ bệnh thấp hơn.

Dây thần kinh số 7 đi qua ống xương trong sọ bên dưới tai đến chi phối cơ một bên mặt, bao gồm động tác nhắm và nháy mắt, biểu lộ cảm xúc như vui cười hay cáu giận. Thêm vào đó, dây thần kinh 7 còn chi phối tuyến nước mắt, nước bọt, và những cơ của các xương nhỏ của tai trong (xương bàn đạp) cũng như vị giác ở lưỡi. Nên khi bị tổn thương dây tk 7 xảy ra thì các bộ phận chịu sự chi phối của nó đều bị ảnh hưởng.

Bệnh LMNB có thường gặp không?

Theo Viện Sức khoẻ Quốc gia Mỹ (National Institute of Health, NIH), liệt mặt ngoại biên mỗi năm ảnh hưởng khoảng 40.000 nười Mỹ ở cả nam và nữ thường độ tuổi từ 15 – 60 tuổi, nhưng  bất kỳ độ tuổi nào cũng có thể mắc bệnh.

Tại sao bị LMNB?

Nguyên nhân chính xác đến nay chưa rõ, các nhà khoa học cho rằng hiện tượng viêm và phù nề dây thần kinh số 7 đóng vai trò chủ yếu, gây thiếu máu và oxygen đến nuôi dây thần kinh. Tổn thương có thể kết hợp với bệnh cúm hoặc giả cúm, đau đầu, viêm tai giữa mạn tính, tăng huyết áp, đái tháo đường, viêm đường hô hấp trên kéo dài, ung bướu…

Làm thế nào để nhận biết bệnh LMNB?

Bệnh được chẩn đoán dựa chủ yếu vào sự khám xét của thầy thuốc là chính, đôi khi người bệnh có thể tự nhận biết hoặc nghi ngờ mình bị bệnh qua các biểu hiện như sau: 

  • mắt giật, 
  • liệt nhẹ hoặc hoàn toàn cơ một bên mặt (rất hiếm cả 2 bên), 
  • sụp mi mắt hoặc khoé miệng, 
  • chảy nước bọt tự động, 
  • khô mắt hoặc miệng, 
  • vị giác thay đổi, 
  • tăng tiết nước mắt, 
  • đau hoặc cảm giác  khó chịu vùng xương gò má dưới mắt và sau tai,
  • đau đầu, 
  • nhạy cảm với tiếng động, 
  • chóng mặt, 
  • giảm thính lực, 
  • nói kém lưu loát… 

 

Các triệu chứng này xảy ra đầy đủ trong vòng 48 giờ.

Khi cần nghiên cứu hoặc những trường hợp người bệnh chậm hoặc phục hồi kém người thầy thuốc sẽ chỉ định thực hiện thêm các kỹ thuật cần thiết khác như: Đo điện cơ, chụp X-quang, chụp cắt lớp, cộng hưởng từ…

LMNB có phải do tai biến mạch máu não hay thiếu máu não thoáng qua không?

Chắc chắn LMNB không phải do hai bệnh lý kể trên gây ra, và tiên lượng LMNB nói chung rất tốt. Sự cải thiện dần dần và thời gian hồi phục hồi rất thay đổi từng người.  

Có điều trị hay không có điều trị, đa số triệu chứng sẽ tốt dần sau khoảng 2 tuần và vận động cơ mặt phục hồi lại chức năng của nó sẽ tốt nhất vào khoảng từ 3 đến 6 tháng. Tuy nhiên trong vài trường hợp có sự phục hồi châm hàng năm và không hoàn toàn, thỉnh thoảng hiếm có trường hợp tái phát liệt cùng bên liệt cũ hoặc đối bên.

Điều trị liệt mặt ngoại biên như thế nào?

Theo Y Học Hiện Đại (YHHĐ):

–        Thuốc chống viêm steroid (prednisone) để giảm viêm chống phù nề,

–        Thuốc kháng virus (acyclovir) khi có bằng chứng nhiễm virus ( herpes, đậu mùa, herps zoster,…).

–        Thuốc giảm đau (acetaminophen, aspirin, ibuprofen…) nếu có đau,

–         Vitamin nhóm B.

–         Lưu ý dùng dịch bôi trơn, làm ẩm tránh khô mắt gây nhiễm trùng mắt.

–        Phẫu thuật thẩm mỹ , tiêm Botulinum toxin…đối với những trường bị co rút cơ mặt nhiều hoặc mắt nhắm không kín gây dễ nhiễm trùng, miệng di lệch gây khó khăn trong ăn uống, phát âm…

Theo Y Học Cổ Truyền (YHCT):

Châm cứu và thuốc YHCT được sử dụng hàng năm trong điều trị các chứng đau, liệt vận động… Thực tế cho thấy phần lớn người bệnh trong và ngoài nước ưa chuộng phương pháp điều trị dùng thuốc có nguồn gốc thiên nhiên cũng như phương pháp không dùng thuốc trong đó có châm cứu được nhiều bệnh tìm đến với mong ước là rút ngắn thời gian phục hồi vận động cơ mặt. Như chúng ta biết, không có gì khổ tâm bằng khi một mắt nhắm không kín, không dám cười với bạn bè, người thân (miệng méo một bên), không biểu lộ được hết cảm xúc vui buồn trên khuôn mặt…

Người bệnh liệt mặt ngoại biên đến với các cơ sở khám chữa bệnh bằng YHCT, thường nằm trong 3 dạng theo tỉ lệ từ cao xuống thấp:

–         Đang được điều trị thuốc tại cơ sở khám chữa bệnh YHHĐ nhưng mong muốn nhanh phục hồi hoặc do phản ứng ngoại ý của thuốc kháng viêm, kháng virus…

–         Quen dùng thuốc YHCT để chữa bệnh và quyết định chọn châm cứu để chữa bệnh,

–         Điều trị thời gian dài bằng YHHĐ nhưng tình trạng liệt các cơ mặt phục hồi chậm.

Có nên chọn điều trị liệt mặt bằng châm cứu không?

Chúng ta nhìn lại các hiệu ứng của châm cứu đã được công bố và nhiều người đồng thuận:

  • châm cứu có tác dụng giảm đau (kích thích sản sinh chất giảm đau nội sinh: chất bêta-endorphin), 
  • chống viêm tại chỗ (có tham gia của các tế bào bạch cầu, lympho bào, cytokine), 
  • tăng tuần hoàn máu nên oxygen và dưỡng chất đến tại vùng châm cứu nhiều hơn…

Rõ ràng theo cơ chế bệnh của liệt dây thần số 7 ngoại biên: viêm, phù nề, chèn ép, đau  thì rõ ràng châm cứu đã đáp ứng được yêu  cầu điều trị bệnh liệt mặt.

Xu hướng chung, theo NIH liệt kê các biện pháp điều trị LMNB bằng liệu pháp hỗ trợ như: vật lý trị liệu, xoa bóp, kích thích điện, vitamin nhóm B và có Châm cứu.

Hãng thông tấn Reuters cho biết Liệu pháp châm cứu tích cực giúp hồi phục liệt mặt ngoại biên. Những nhà nghiên cứu Đại học Harvard cũng ủng hộ quan điểm châm cứu trị liệt mặt vì họ đồng ý rằng khi kim châm sẽ giúp tăng tuần hoàn máu mang theo theo dưỡng chất, chống viêm tại chỗ vùng cơ mặt bị liệt nên giúp phục hồi được bệnh liệt mặt.

Qua trải nghiệm thực tế của nhiều thầy thuốc YHCT ở Việt Nam cho thấy sử dụng châm hoặc cứu càng sớm tỉ lệ phục hồi càng nhanh. Cho dù chưa có những đề tài nghiên cứu về chữa trị liệt dây thần kinh mặt bằng châm cứu được thiết kế tốt, đạt quy chuẩn cũng như  chưa có sự đồng thuận cao giữa các thầy thuốc YHCT và YHHĐ trong điều trị bệnh liệt mặt ngoại biên, nhưng hiện tại sử dụng châm cứu trong điều trị liệt mặt đang được cộng đồng chấp nhận vì mong muốn là bệnh được phục hồi càng sớm càng tốt và rõ ràng nếu được châm cứu ở những thầy thuốc có đào tạo tốt sẽ đạt hiệu quả cao và rất hiếm khi gây biến chứng hay ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ người bệnh.

Người LMNB cần chăm sóc gì?

–         Giữ vệ sinh mắt: dùng chất làm trơn, nước mắt nhân tạo, nước muối sinh lý…để tránh khô mắt và hạn chế bội nhiễm mắt,

–         Vệ sinh răng miệng: đặc biệt người cao tuổi và trẻ em, do không giữ được nước trong miệng nên lười chải răng, thức ăn ứ đọng bên má liệt…nên dễ bị viêm răng miệng, ảnh hưởng đến sức đề kháng của cơ thể gây chậm phục hồi bệnh nói chung,
–         Cần giải thích, động viên người bệnh an tâm để có sự phối hợp và tuân thủ điều trị của thầy thuốc, tỉ lệ lành bệnh sẽ cao hơn.

Bs Trần Văn Năm – Nguyên phó viện trưởng Viện Y Dược học dân tộc thành phố Hồ Chí Minh.

Khai giảng lớp YOGA cơ bản và trung cấp tại Viện Y Dược Học Dân Tộc

Yoga giúp cho cơ thể dẻo dai, tăng sức đề kháng, ngăn ngừa bệnh tật, đồng thời giảm stress, mang tới tinh thần lạc quan và thanh bình. Tập các bài tập yoga, hay còn gọi là asanas, đều đặn giúp giảm dần và trị hết những chứng bệnh thường gặp như đau lưng, thấp khớp, đau bao tử, nhức mỏi, mỏi mệt, mất ngủ, nhức đầu, thần kinh và tim mạch, v.v.  Các tư thế “thư giãn”, “xác chết” và “hoa sen” thường xuyên giúp cho tinh thần yêu đời, ham thích phục vụ và tâm trí an lạc, bình an.

LỚP YOGA CƠ BẢN VÀ TRUNG CẤP TẠI VIỆN YDHDT
273 Nguyễn Văn Trỗi, Q. Phú Nhuận, TP. HCM
 LỊCH HỌC THÁNG 11/2015
 
Lớp
Ngày bắt đầu
Giờ học
Thời khóa biểu
Phòng tập
Học phí
Lưu ý
bản
04/11/2015
18:00 – 19:30
thứ tư hàng tuần
Hội trường, lầu 2
400.000 đồng/8 buổi
Hỏi phòng Dịch Vụ Ngoài Giờ  để được hướng dẫn lên phòng tập
Trung cấp
02/11/2015
18:00 – 19:30
thứ hai hàng tuần
Hội trường, lầu 2
400.000 đồng/8 buổi
Đối tượng: nam, nữ, từ 18 tuổi đến 70-80 tuổi, chưa biết về yoga, hoặc biết rồi nhưng muốn có một trình độ cơ bản về yoga và chương trình tập luyện tập nhà riêng cho mình, tốt cho sức khỏe và cả tâm trí.
Đăng ký, đóng tiền tại phòng Dịch Vụ Ngoài Giờ – cạnh Khoa Khám Bệnh – (làm việc từ 16:30 đến 19:00 thứ hai tới thứ sáu, thứ bảy từ 7h30 – 11h30. Mời sắp xếp thời gian để vô học ngay vào ngày đầu, chuẩn bị quần áo thun thể thao (có phòng thay đồ trên lầu) và thảm yoga (có thể mua sẵn hoặc mua tại lớp – 250.000/bộ đồ yova, 180.000/thảm yoga đã có túi). Chi tiết xin liên hệ: 0903.004984 (Cô Khanh) hoặc 083.820.1196 (Cô Tám).
Lớp yoga có 3 trình độ cơ bản, trung cấp và nâng cao (rơi vào những ngày khác nhau, tùy trình độ). Mỗi lớp gồm 8 buổi học (2 tháng), tuần 1 buổi. Học viên đến lớp tập để ôn tư thế cũ và học tư thế mới để về tự tập ở nhà những ngày còn lại trong tuần. Ngoài các động tác, học viên còn được hướng dẫn thực hành những thói quen tốt trong sinh hoạt và nghe những đề tài nâng cao tâm trí.

Đông y điều trị chứng khó tiêu hoá do rối loạn dạ dày – ruột

Biểu hiện rối loạn dạ dày – ruột (Gastrointestinal disorders) thường gặp nhất là chứng khó tiêu dành để mô tả tình trạng căng tức cấp hoặc mạn tính, tái diễn nhiều lần hay cảm giác khó chịu vùng thượng vị (nơi lõm đầu dưới xương ức), tức hoặc nóng thượng vị, no nhanh, đầy chướng sau khi ăn  (định nghĩa theo Uỷ Ban Quốc Tế của những nhà khảo sát lâm sàng, Rome III committee). Cần phân biệt chứng khó tiêu với ợ nóng, vì chứng ợ nóng (heartburn) khi xuất hiện chủ yếu đó chính là biểu hiện của chứng trào ngược dạ dày thực quản.

Chứng khó tiêu chiếm 25% dân số người lớn và khoảng 3% trong số người bệnh đến khám tại các cơ sở chăm sóc y tế. Chỉ riêng chứng khó tiêu không là dấu hiệu đặc trưng của một bệnh nào, nhưng khi khó tiêu kéo dài và xuất hiện cùng một lúc với các dấu hiệu khác như: chán ăn, thay đổi vị giác, chướng bụng, buồn nôn, nôn, sụt cân, đau vùng bụng, thay đổi thói quen đi tiêu hay tính chất của phân… phải cần tìm nguyên nhân để chữa bệnh. Các nguyên nhân có thể gặp chứng khó tiêu hoá do bệnh lý của dạ dày như sau:

2

1. Nguyên nhân của chứng khó tiêu:

– Không dung nạp với thức ăn hoặc thuốc trị bệnh: khó tiêu thoáng qua hoặc cấp có thể do ăn quá no, quá nhanh, thức ăn chứa lượng dầu béo cao, căng thẳng khi ăn, hay uống nhiều rượu, cà phê. Các thuốc uống điều trị bệnh có thể gây chứng khó tiêu gồm: thuốc giảm đau không chứa steroid (NSAIDs), vài loại kháng sinh, thuốc trị bệnh tiểu đường (Metformin, a-glucosidase, kháng thụ thể GLP-1), thuốc hạ huyết áp (ức chế men chuyển, ức chế b), thuốc hạ lipid máu (fibrates), thuốc trị bệnh tâm – thần kinh, thuốc chống động kinh…

– Khó tiêu chức năng: đây là dạng thường gặp nhất của chứng khó tiêu mạn tính. Có đến 2/3 người bệnh không tìm gặp tổn thương thực thể cho dù thăm khám kỹ lưỡng. Cơ chế gây chứng khó tiêu này phức tạp có thể do mất sự đồng bộ trong dẫn truyền thần kinh, stress…mặc dù tính chất không nguy hiểm nhưng khó chữa khỏi hoàn toàn.

– Rối loạn chức năng khoang dạ dày – ruột: có khoảng từ 5 – 15 % bệnh loét dạ dày có triệu chứng khó tiêu, bệnh trào ngược dạ dày – thực quản chiếm 20% người bị khó tiêu, ngay cả họ không bị ợ nóng nặng. Những nguyên nhân khác bao gồm giảm nhu động dạ dày (đặc biệt gặp ở người bệnh đái tháo đường), không dung nạp lactose, hay tình trạng kém hấp thu, và nhiễm ký sinh trùng (Giardia, Strongyloides).

– Nhiễm Helicobacter pylori (HP): mặc dù nhiễm H.pylori mạn tính là nguyên nhân thường gặp nhất của loét dạ dày, nhưng hiếm khi gây chứng khó tiêu khi không có loét dạ dày. Tần suất của viêm dạ dày mạn tính  nhiễm H. pylori có bị khó tiêu mà không có loét từ 20 – 50% dân số.

– Bệnh tuỵ tạng: ung thư tuỵ và viêm tuỵ mạn tính có thể bị chứng khó tiêu.

– Bệnh đường mật: cơn khởi phát đột ngột của đau thượng vị hay ¼ trên bên phải do bởi sỏi túi mật hay đường mật gây viêm tắc có thể kèm chứng khó tiêu.

– Những tình trạng bệnh lý khác: đái tháo đường, bệnh tuyến giáp, bệnh thận mạn tính, thiếu máu cơ tim, bệnh ác tính trong ổ bụng, xoắn dạ dày, thoát vị cận thực quản, có thai…đôi khi bị chứng khó tiêu.

2. Điều trị chứng khó tiêu bằng Y dược cổ truyền (YDCT):

Vì có sự liên hệ chặt chẽ giữa các cơ quan – bộ phận bên trong cơ thể và cơ thể với môi trường, nên phải điều trị với một biện pháp tổng hợp từ: kiểm soát, ổn định yếu tố tâm – thần kinh; thực hiện thói quen ăn uống hợp lý: ăn chậm nhai kỹ, ít chất béo, thông báo với bác sĩ điều trị để điều chỉnh một số thuốc có thể gây chứng chậm tiêu, hạn chế cà phê – rượu bia, bỏ thuốc lá. Riêng thuốc đông dược điều trị chứng chậm tiêu tuỳ theo tình trạng hiện có của cơ thể người bệnh, như sau:

A. Nguyên tắc sử dụng thuốc: 

– Tái lập cân bằng bài tiết dịch tiêu hoá (chất nhày, men tiêu hoá, dịch tuỵ – mật, acid dạ dày) đông y sử dụng nhóm thuốcTiêu đạo (Eupepsia) gồm các dược liệu: Sơn tra, Mạch nha, Thần khúc, dịch mật động vật, Kê nội kim, Nghệ…
– Điều hoà nhu động hoặc chống co thắt ống tiêu hoá (qua cơ chế thần kinh hoặc tại chỗ của dạ dày – ruột) đông y sử dụng thuốc Thông hoạt (activator, antispasmodic) như: Sa nhân, Hương phụ chế, Hậu phác, Chỉ thực, Chỉ xác, Uất kim…
– Chống vi khuẩn, ký sinh trùng: gồm các dược liệu có tác dụng thanh nhiệt, giải độc như: Hoàng liên, Hoàng bá, Mơ tam thể, Tỏi, Kim ngân hoa, Chè dây, Bồ công anh, Bạc hà…

B. Các thể bệnh thường gặp và bài thuốc sử dụng:

– Khó tiêu và  căng tức hay đau thượng vị lan dưới hạ sườn, bứt rứt, cáu gắt, uống nước lạnh – mát dễ chịu, khó ngủ, ợ chua – nóng, rêu lưỡi vàng, lưỡi nứt, tiêu bón…(đông y gọi là Chứng can khí uất, liên quan đến chứng thừa acid dạ dày): bài thuốc dạng sắc gồm: Sài hồ, Cúc tần, Chi tử: 8 – 10g; Táo nhân, Viễn chí: 6 – 8 g; Ô dước, Hậu phác, lá Muồng trâu, Uất kim: 4 – 6g; Bồ công anh, Rau má: 12 – 15g. Các chế phẩm tên thương mại: Tiêu dao đan chi, Tiêu dao – f.
– Khó tiêu và sợ lạnh, buồn nôn, đau âm ỉ thượng vị, lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, tiêu lỏng hay phân nát, ăn uống thức ăn ấm dễ chịu…(đông y gọi là Chứng tỳ vị hư hàn, liên quan đến chứng thiếu acid dạ dày), bài thuốc dạng sắc gồm: Sa nhân, Mộc hương, Hương phụ chế 6 – 8 g; Đảng sâm, Vỏ quýt, củ Sả, Bạch truật 8 – 10g; Chỉ thực, Bán hạ chế, Thuỷ xương bồ, Mai mực 6 – 8g. Chế phẩm tên thương mại: Hương sa lục quân, Bình vị tán,…
– Các thể bệnh khác sẽ được bổ sung hoặc thay đổi tuỳ vào biểu hiện đi kèm như: tăng tiết nước bọt, chán ăn, khô miệng, khát nước, đau bụng nhiều, ợ nóng nhiều, khó ngủ…do thầy thuốc quyết định điều chỉnh thuốc phù hợp.

C. Những điều cần lưu ý: 

Vì chứng khó tiêu hoá có liên quan đến rất nhiều loại bệnh từ thực quản đến ruột và các cơ quan như gan mật, tuỵ, nên nếu sử dụng thuốc vài tuần không thuyên giảm người bệnh cần được thực hiện thêm các kỹ thuật cận lâm sàng: nội soi dạ dày, siêu âm, xét nghiệm máu – phân, đôi khi cần chụp cắt lớp, cộng hưởng từ…đặc biệt ở người cao tuổi và gầy nhanh nên sớm đến các cơ sở khám bệnh chuyên khoa để có biện pháp điều trị thích hợp nhất.
Gần đây, một loại bệnh liên quan đến chứng khó tiêu đang rất phổ biến gây nhiều lo lắng vì phải điều trị kéo dài, dễ tái nhiễm và có một số phản ứng ngoại ý khi uống thuốc là viêm dạ dày có nhiễm Helicobacter pylori . Đây là bệnh cần quan tâm nhưng không nên quá lo lắng, sơ hãi. Thực tế, vi khuẫn HP đa số bị diệt bởi kết hợp một số kháng sinh với nhau và chỉ một số nhỏ người bệnh bị kháng thuốc hay dị ứng thuốc.. Cần tuân thủ uống thuốc đủ liều và thực hiện vệ sinh ăn uống, rửa tay, làm sạch ly chén khi dùng chung.
Hiện nay, các thầy thuốc YDCT trong và ngoài nước đã và đang nghiên cứu nhằm tìm các dược liệu có thể hỗ trợ kìm hoặc diệt vi khuẩn HP kháng thuốc kháng sinh hay thường xuyên tái nhiễm. Các dược liệu như: Tỏi, Trà xanh, Nghệ, Chè dây, Riềng, rau Bạc hà (có tinh dầu menthol), Quế…được ghi nhận có tác dụng diệt HP và hứa hẹn có thêm vũ khí mới giúp chữa trị loại vi khuẩn này.

Bs Trần Văn Năm – Nguyên phó viện trưởng Viện Y Dược học dân tộc thành phố hồ chí minh.

Liệu pháp thiên nhiên hỗ trợ điều trị bệnh vảy nến

Bệnh vảy nến là một bệnh tự miễn (do hệ miễn dịch tăng hoạt động và tấn công vào các tổ chức bình thường của cơ thể, chủ yếu là da) mạn tính chiếm khoảng 3 – 4% dân số của Mỹ, bệnh chủ yếu xảy ra ở người lớn, trẻ con có tỉ lệ bệnh thấp (JAMA Dermatology). Theo Sở y tế quốc gia thuộc Vương quốc Anh, khoảng 2% dân Anh bị bệnh vảy nến, tuổi thường gặp 11 đến 45 tuổi, tuy nhiên các lứa tuổi khác cũng có thể mắc bệnh.

1

1. Biểu hiện của bệnh: 

– Da xuất hiện các mảng đỏ, dày, sần sùi, tróc vảy. Vị trí thường gặp là nơi mặt duỗi của các khớp (khuỷu, gối), da đầu, mặt, tai, thắt lưng, lòng bàn tay, bàn chân, các nếp gấp ở bộ phận sinh dục, mông và móng tay – chân.

– Khoảng 10 – 20% người bệnh vảy nến có nguy cơ bị viêm khớp vảy nến.

– Bệnh vảy nến không lây, nhưng về mặt xã hội người bệnh thường bị mặc cảm trong giao tiếp, quan hệ xã hội, đặc biệt đối với thể bệnh nặng và có sự liên quan đến chứng trầm cảm ở một số người bệnh.

– Gần đây, các chuyên gia còn cho biết người bệnh vảy nến có nguy cơ mắc thêm bệnh tim mạch, đái tháo đường.

2. Nguyên nhân bệnh:

– Nguyên nhân chính xác của bệnh không được biết.

– Hầu hết các chuyên gia tin rằng có yếu tố di truyền và bị thúc đẩy bởi uống nhiều rượu, hút thuốc lá quá nhiều, stress tinh thần, và sau khi ngưng đột ngột thuốc corticoid dùng đường toàn thân.

3. Phân loại bệnh vảy nến:

Tuỳ theo biểu hiện của bệnh mà chia ra các thể: vảy nến tróc vảy (chiếm 80 – 90%, da bong vảy từng mảng trắng), vảy nến nếp gấp (đặc biệt ở vùng nách, bộ phận sinh dục, nếp dưới vù, nếp mông…), vảy nến bóng nước, vảy nến mụn mủ, vảy nến đỏ da…

4. Yếu tố nguy cơ (yếu tố gây khởi hát bệnh):

Tiền căn gia đình, theo thống kê có khoảng 30% người bệnh có thành viên trong gia đình bị vảy nến (có 3 gen liên quan: SLC9A3R1, NAT9 và RAPTOR), Bệnh nhân HIV, nhiễm khuẩn tái phát nhiều lần (viêm họng do streptococcus), stress tâm thần kinh, thừa cân – béo phì, hút thuốc lá kéo dài, một số thuốc tân dược trị bệnh tim mạch (thuốc ức chế bêta, ức chế men chuyển), thuốc chống sốt rét, sử dụng liều cao và ngưng đột ngột chất corticoids có thể gây bệnh vảy nến…

5. Chẩn đoán bệnh:

– Bệnh chủ yếu được thầy thuốc chẩn đoán dựa vào biểu hiện bên ngoài và diễn tiến của bệnh, hiện không có một xét nghiệm đặc hiệu nào sử dụng cho chẩn đoán, một số nước có dùng kỹ thuật sinh thiết da.

– Một số xét nghiệm máu nhận biết diễn tiến nặng của quá trình viêm: tốc độ máu lắng, C-RP, x-quang khớp (viêm khớp vảy nến)…

6. Bệnh vảy nến điều trị như thế nào:

Hiện nay, y học chưa thể điều trị khỏi hẳn bệnh vảy nến. Tuy nhiên, mục tiêu điều trị nhằm: hạn chế quá trình viêm, chống nhiễm trùng (nếu có), giảm bong tróc vảy, và làm mềm da.

Điều trị theo quy ước của Y học hiện đại: chọn thuốc dựa vào phân loại bệnh, mức độ nặng và vùng da nào của cơ thể bị ảnh hưởng. Các thuốc được sử dụng phối hợp:

  • Thuốc bôi tại chỗ, 
  • Quang trị liệu (phototherapy), 
  • Đường uống (ức chế miễn dịch, kháng viêm, kháng sinh, mềm da…) 
  • Đường tiêm (thuốc sinh học, biologic therapy).

7. Điều trị bệnh vảy nến bằng liệu pháp thiên nhiên:

Vì bệnh vảy nến là một biểu hiện ngoài da của một bệnh toàn thân, nên điều trị cần một liệu pháp tổng hợp từ sử dụng thuốc và không dùng thuốc:
Chế độ ăn: hạn chế thức ăn gây tăng quá trình viêm mạn tính như: thức ăn quá ngọt, thịt đỏ, các loại mắm, mỡ động vật, thức ăn chế biến cầu kỳ. Tăng cường rau xanh, củ, trái cây; uống đủ nước tinh khiết hoặc nước chế biến từ một số loại dược liệu quanh nhà: Rễ tranh, Mã đề, Râu Ngô, Rau má…có thể bổ sung vitamin và nguyên tố vi lượng: acid folic (1mg/ngày), Kẻm (25mg/ngày), Selen, Omega – 3…
Tập thể dục vừa sức: Dưỡng sinh, Yoga, Thái cực quyền, Thiền định, ngủ đủ giờ, kiểm soát stress… nhằm tăng sức đề kháng,
Sử dụng thuốc: tuỳ giai đoạn, thể bệnh và tổng trạng của người bệnh sẽ chọn thuốc phù hợp:
a. Thể bệnh với da đỏ nhiều (tăng quá trình viêm, đông y gọi là nhiệt) mụn nước, rỉ dịch  (tăng xuất tiết, đông y gọi là thấp), ngứa (dị ứng, chứng phong của đông y):

  • Đỏ da, ngứa, rỉ dịch: Kim ngân hoa, Bồ công anh, Sài đất, Diệp hạ châu (liều từ 12 – 15g), Hoàng liên, Hoàng bá, Hoàng cầm (8 – 12g), 
  • Ngứa: Cam thảo (6g) ,  Phòng phòng, Sài hồ,  (10 – 12g) , Kinh giới, Tía tô, Bạch linh, Bạch chỉ (12 – 15g), 
  • Mụn nước, rỉ dịch: Bạch phục linh, Rễ tranh, Râu mèo (từ 15 – 20g),Ngưu tất (12g),

Chọn mỗi nhóm từ 1 đến 2 vị dược liệu trên, nấu với nước uống.
b. Thể bệnh với đỏ da, ngứa, da khô, tróc vảy (thiếu nước, chứng táo):

  • Thuốc trị đỏ da và ngứa như trên thêm vị thuốc trị khô da, tróc vảy dưới đây:
  • Da khô tróc vảy trắng từng mảng: Huyền sâm, Sinh địa, Mạch môn, Sa sâm (12 – 15g), Ngũ vị tử (6 – 8g).

c. Thể bệnh lâu ngày, cơ thể suy nhược: Hà thủ ô đỏ, Hoàng kỳ, Nhân sâm, Đảng âm, Đinh lăng, Bạch truật, Đương quy…
Tuỳ tình trạng đáp ứng thuốc của người bệnh, YHCT lưu ý sử dụng thêm các thuốc thúc đẩy tuần hoàn (Hoạt huyết: Đan sâm, Kê huyết đằng, Cỏ mực, Xuyên khung) hoặc thuốc ổn định tâm thần kinh (Lạc tiên, Tâm sen, Thảo quyết minh, Bình vôi)…
d. Viêm khớp vảy nến: Độc hoạt, Khương hoạt, Tục đoạn, Cỏ sướt, Tang ký sinh (10 – 15g) …

8. Dự phòng: 

Đây là bệnh có nguyên nhân chưa xác định và là bệnh tự miễn nên dự phòng rất khó khăn. Tuy nhiên, cần tránh các yếu tố nguy cơ biết được như:
– Điều chỉnh lối sống hợp lý: không hút thuốc lá, hạn chế rượu bia, ăn uống hợp lý (tăng cường rau xanh, trái cây, uống đủ nước), thường xuyên tập thể dục, hạn chế tác hại của môi trường (ô nhiễm không khí, hoá độc hại, mỹ phẩm),
– Sử dụng một số nước uống từ cây rau làm thuốc có tác dụng chống gốc tự do (chất làm tổn hại tế bào) như: nước xay Rau má, Bơ, Cà rốt, Táo…
– Rèn luyện tinh thần, thể lực, kiểm soát stress…
– Sử dụng thuốc khi có ý kiến của thầy thuốc.

Lưu ý: 

– Gần đây, có nhiều thông tin trên mạng giới thiệu một số cây thuốc Nam có tác dụng trị bệnh vảy nến như: ăn lá Hoàn ngọc, lá Lược vàng… có hiệu quả đối với vài người. Tuy nhiên, cơ thể mỗi người mỗi khác, thể bệnh này cần thuốc này, thuốc khác cho thể bệnh khác. Không thể chỉ có một cây thuốc hoặc một bài thuốc cố định có hiệu quả cho tất cả mọi người.
– Khi quyết định dùng thuốc cần tham khảo ý kiến thầy thuốc chuyên khoa và lắng nghe đáp ứng của cơ thể.
– Đối với người bệnh vảy nến luôn cần sự động viên và chia sẻ của người thân, bạn bè. Bản thân người bệnh cần kiên trì, lựa chọn phương pháp điều trị khoa học, hạn chế buồn chán, bi quan vì “trạng thái tâm lý tiêu cực sẽ luôn gây nặng thêm tình trạng bệnh hiện có”.

Bs Trần Văn Năm – Nguyên phó viện trưởng Viện Y Dược học dân tộc thành phố hồ chí minh.

Chương trình đồng hành với sức khỏe người dân tại thị trấn Hóc Môn, Huyện Hóc Môn, TP.Hồ Chí Minh

Ngày 18/10/2015 vừa qua Đoàn Y, Bác sĩ của Viện Y Dược Học Dân Tộc TP.Hồ Chí Minh (với sự hỗ trợ của Ngân hàng thương mại cổ phần VietComBank Chi nhánh TP.HCM) cùng Đoàn Thanh niên và Hội người cao tuổi thị trấn Hóc Môn đã tổ chức chương trình khám bệnh, tư vấn sức khỏe miễn phí và tặng quà cho người cao tuổi tại thị trấn Hóc Môn, huyện Hóc Môn, TP.Hồ Chí Minh.Đây là chương trình hưởng ứng “Tháng hành động vì người cao tuổi Việt Nam” năm 2015 của Viện Y Dược Học Dân Tộc

1 2

Đoàn y, bác sĩ của Viện Y Dược học dân tộc gồm 27 người do ThS.DS. Hà Văn Hùng – Phó viện trưởng làm trưởng đoàn đã khám bệnh, cấp phát thuốc miễn phí và trao tặng 165 phần quà cho 165 người cao tuổi tại địa phương. Ngoài ra, đoàn y bác sĩ còn trực tiếp tư vấn điều trị theo đúng chuyên khoa cho các đối tượng, hướng dẫn người dân các kiến thức cơ bản về vệ sinh phòng bệnh, bảo vệ sức khỏe cho bản thân, gia đình và cộng đồng.

Đại diện Ban Giám đốc Viện, ThS.DS. Hà Văn Hùng đã gửi lời cảm ơn đến chính quyền, đoàn thể và nhân dân thị trấn Hóc Môn đã hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi để hoàn thành chuyến đi đầy ý nghĩa này.

Sau khi kết thúc chương trình, chính quyền, đoàn thể và nhân dân thị trấn Hóc Môn đã bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đối với sự quan tâm của lãnh đạo, y bác sĩ Viện Y Dược học dân tộc đối với người dân tại địa phương.

Một số hình ảnh hoạt động./.

4 6 7

8 9 10 11

 

Hàng loạt chuột thí nghiệm chết khi uống cây nở ngày đất

Cây nở ngày đất được Viện Y dược học dân tộc TP.HCM nghiên cứu sau khi phơi khô

Người dân sử dụng cây nở ngày đất như thần dược, nhưng trong phòng thí nghiệm chuột thí nghiệm đều lăn ra chết khi uống nước sắc từ cây thuốc này.

Theo TS Trương Thị Ngọc Lan, đối với thử nghiệm độc tính cấp, động vật thí nghiệm được chọn là chuột nhắt trắng vì đây là loài nhạy cảm, có quá trình chuyển hóa gần giống ở người. Khi kết quả nghiên cứu trên chuột hoàn chỉnh, sẽ tiến hành nghiên cứu tác dụng của thuốc trên người.

Từ liều nghiên cứu trên động vật thí nghiệm, bác sĩ sẽ suy ra liều dùng điều trị trên người cho hợp lý. Tuy nhiên, tất cả phải dựa trên cơ sở khoa học hoặc chứng minh thực tế thông qua các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng được công bố chính thức, từ đó mới áp dụng điều trị.

Cây nở ngày đất được Viện Y dược học dân tộc TP.HCM nghiên cứu sau khi phơi khô
Cây nở ngày đất được Viện Y dược học dân tộc TP.HCM nghiên cứu sau khi phơi khô

Chuột chết khi tăng liều gấp 6 – 10 lần

TS-BS Trương Thị Ngọc Lan, Phó trưởng phòng Đào tạo – nghiên cứu khoa học – chỉ đạo tuyến, Viện Y dược học dân tộc TP.HCM kể: “Khoảng tháng 11/2014, tại TP.HCM rộ lên phong trào “săn lùng” sử dụng cây nở ngày đất. Giá cây tăng mạnh. Thậm chí, một số bệnh nhân đang điều trị tại Viện có ý định chuyển sang uống cây nở ngày đất để trị bệnh gút, tiểu đường, cao huyết áp…”.

Theo TS-BS Trương Thị Ngọc Lan, trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu ghi nhận tác dụng trên thực nghiệm của cây nở ngày đất. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu công bố về tác dụng của cây nở ngày đất mọc tại Việt Nam, nhất là về tác dụng và độc chất của cây.

Trước thực trạng người dân đua nhau trị bệnh theo phong trào mà không rõ hiệu quả của “loại thuốc” này, Viện nhanh chóng vào cuộc thực hiện “Khảo sát độc tính của cây nở ngày đất trên thực nghiệm tại Viện Y dược học dân tộc TP.HCM”.

“Viện đã mua cây nở ngày đất, loại có bông màu trắng, thân và lá màu xanh được bán từ các xe đẩy trên đường phố và các cơ sở buôn bán Đông dược tại thị trường TP.HCM để tiến hành nghiên cứu độc tính. Đối tượng được nghiên cứu trong phòng thí nghiệm là chuột nhắt trắng được chia thành hai nhóm, một nhóm uống nước sắc cây nở ngày đất (bao gồm cả rễ cây) dạng tươi và nhóm còn lại uống dạng khô.

Liều nước sắc dân gian thường dùng trên người là 200g/ngày đối với cây tươi và 100g/ngày đối với cây khô. Lúc đầu, chúng tôi thử tăng liều gấp 10 lần so với liều thông dụng thì hàng loạt chuột đều chết nhanh chóng. Sau đó, hạ liều thử nghiệm xuống còn gấp 6 liều thông thường thì hàng loạt chuột thí nghiệm xảy ra tình trạng co giật và chết sau 30-45 phút” – ThS Nguyễn Thị Diệu, Phó trưởng khoa Thực nghiệm, Viện Y dược học dân tộc TP.HCM cho biết.

BS CKI Huỳnh Nguyễn Lộc, Viện trưởng Viện Y dược học dân tộc TP.HCM khuyến cáo: việc xác định độc tính cấp của thuốc trên động vật thí nghiệm nhằm đánh giá độc tính và độ an toàn của thuốc đó, là cơ sở để xác định chỉ số điều trị – một thông số rất quan trọng để xem xét có nên đưa thuốc đó vào dùng trên người hay không.

Nếu loài cây có độc nhưng có tác dụng điều trị thì bác sĩ sẽ chỉ định người bệnh dùng thuốc với hàm lượng không gây độc, nhưng đạt hiệu quả nhất và nên dùng bộ phận nào của cây hay dùng nguyên cây. Kết quả nghiên cứu này cho thấy, cây nở ngày đất có độc tính chứ không phải hoàn toàn vô hại.

Điều này đã được ghi nhận trong các nghiên cứu trên thế giới cũng như Cục Quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã cảnh báo, cây nở ngày đất thuộc nhóm thực vật có độc tính. Viện đang tiếp tục nghiên cứu để làm rõ hơn vấn đề trên cũng như việc sử dụng cây nở ngày đất trong thời gian dài.

Cây nở ngày đất vẫn được mua bán nhộn nhịp (Ảnh chụp chiều 11/10 tại đường Cộng Hòa, Q.Tân Bình, TP.HCM)
Cây nở ngày đất vẫn được mua bán nhộn nhịp (Ảnh chụp chiều 11/10 tại đường Cộng Hòa, Q.Tân Bình, TP.HCM)

Nhiều nơi vẫn “sốt” cây nở ngày đất

Dù phong trào mua bán cây nở ngày đất không còn nhộn nhịp như thời điểm tháng 11/2014, nhưng nhu cầu sử dụng tại TP.HCM vẫn tiếp tục tăng cao. Chiều 11/10, nhiều người dân bán trái cây lẫn cây nở ngày đất đứng xếp lớp dọc cuối đoạn đường Trường Chinh, Q.Tân Bình. Khi tôi hỏi mua, chị An – một người bán cây nở ngày đất tại đây hối hả:

“Một ký 40.000đ. Anh đem về sắc nước uống, phơi khô hay uống tươi đều được”. Khi chúng tôi hỏi cây này có trị hết bệnh không hay chỉ là tin đồn, chị An trố mắt: “Lúc trước, nhiều người hỏi mua, giá một ký lên đến 80.000đ nhưng không có hàng để bán, giờ rẻ rồi đó. Nhiều người uống điều trị bệnh gút, đau khớp, tiểu đường, cao huyết áp, ung thư… Ngày nào tôi cũng bán 20 – 30 ký”.

Tương tự, chủ một xe đẩy bán cây nở ngày đất trên đường Điện Biên Phủ, Q.Bình Thạnh cho hay: “Cây nở ngày đất chữa đau lưng, nhức mỏi, khớp gối, tiểu đường, bệnh gút… Giá một ký là 55.000đ, nửa ký là 30.000đ”.

Ảnh: Phùng Huy
Ảnh: Phùng Huy

Thấy khách tỏ ra hời hợt, chủ xe đẩy “kích cầu”: “Lúc trước báo chí đăng rần rần về hiệu quả của cây nở ngày đất chữa nhiều bệnh đó. Vì nhiều người biết công dụng của nó rồi nên tôi không đem theo mấy tờ báo, chứ lúc trước bán, tôi dán sẵn mấy tờ báo trước xe cho khách xem”.

BS CKI Huỳnh Nguyễn Lộc chia sẻ, Từ điển cây thuốc Việt Nam (Võ Văn Chi, NXB Y học 1997 tập 2, trang 877) cho biết:

Theo dân gian, rễ cây nở ngày đất sắc uống trị ho, cảm cúm, kích thích tiêu hóa tốt, loại bỏ căng thẳng mệt mỏi; toàn cây sắc uống có tác dụng tiêu độc. Tuy nhiên, chưa có tài liệu nào nghiên cứu về tác dụng của cây nở ngày đất, đặc biệt là đối với bệnh gút và tiểu đường. Trong lúc chờ nghiên cứu, người dân không nên tự ý sử dụng cây nở ngày đất mà cần có chỉ định của bác sĩ. Tốt nhất, khi có vấn đề về sức khỏe nên đến khám, điều trị và được theo dõi tại các cơ sở khám chữa bệnh có uy tín”.

Cùng quan điểm trên, BS Trần Văn Năm – nguyên Viện phó Viện Y dược học dân tộc TP.HCM cho biết, thực tế cây nở ngày đất có rất nhiều loài như: globosa, celosiosides, rubra… Theo một số tài liệu nước ngoài, cây nở ngày đất có chứa chất fl avones, fl avonoids, glycosides, steroids… với tác dụng hạ sốt, kháng viêm, hạn chế phát triển của một số loại vi khuẩn, lợi tiểu, chống oxy hóa.

Đây là một loại cây có dược tính, có thể dùng làm thuốc chữa một số bệnh lý mạn tính. Tuy nhiên, giới thầy thuốc Đông y chỉ mới sử dụng theo kinh nghiệm. Cây chưa được nghiên cứu về độc tính, tác dụng dược lý lâm sàng, chỉ định điều trị đối với hai loại bệnh tiểu đường và gút.

Tiểu đường và gút thuộc loại bệnh rối loạn chuyển hóa chất đường và đạm nên nguyên tắc điều trị là tuân thủ chế độ ăn khoa học, tập luyện hợp lý và điều trị theo hướng dẫn của thầy thuốc. Không nên dựa vào tin đồn, lời mách bảo của những người không có chuyên môn, tùy tiện sử dụng. Việc dùng cây này khi chưa xác định được liều lượng, sự tương tác với các thuốc khác… có thể xảy ra tai biến.

Hoàng Sa

Viện Y dược học dân tộc nên công bố rộng rãi kết quả nghiên cứu

Một bác sĩ Đông y cho rằng, trong nghiên cứu, bước đầu tiên để các nhà khoa học thực hiện thường sử dụng liều gây chết trung bình với khoảng 50% súc vật thí nghiệm, từ đó tính ra liều sử dụng an toàn.

Tuy nhiên, điều đáng lưu ý, với nghiên cứu này, chứng tỏ trong cây nở ngày đất có độc khi sử dụng liều cao. Sau nghiên cứu này, Viện Y dược học dân tộc TP.HCM nên công bố rộng rãi để nhiều nhà khoa học khác có thể nhập cuộc nghiên cứu các bước tiếp theo.

Nhà khoa học bắt đầu nghiên cứu hạ dần liều đến ngưỡng an toàn, rồi mới thử tác dụng dược lý xem cây nở ngày đất có hạ được axít uric chữa bệnh gút hay hạ lượng đường trong điều trị bệnh tiểu đường hay không.

Hiện nay, giới Đông y đang rất nghi ngờ công dụng chữa bệnh gút và tiểu đường của cây nở ngày đất. Nếu như cây nở ngày đất chỉ điều trị được bệnh gút và tiểu đường ở liều cao thì cũng vô nghĩa vì liều cao sẽ gây chết người. Tuy nhiên, cần có thời gian nghiên cứu thêm về độc tính theo giai đoạn bán trường diễn (kéo dài hai tháng) rồi trường diễn (ba-sáu tháng) trên chuột.

Theo PhuNuOnline

Giải thưởng Nobel y sinh học 2015: Ghi nhận sự hữu ích của y học cổ truyền

Ngày 5/10/2015, giải thưởng Nobel y sinh học năm 2015 được công bố. Ba nhà khoa học được vinh danh đó là William C.Campbell ((Ireland ), Satoshi Omura ( Nhật Bản) và Đồ U U (Trung Quốc).

1
Các nhà khoa học đoạt giải Nobel Y sinh học 2015. Ảnh: AFP

Giải thưởng Nobel y sinh học năm nay là một minh chứng và ghi nhận sự hữu ích của y học cổ truyền, và một lời nhắc nhở về mối đe doạ của bệnh do kí sinh trùng gây ra. Hai nhà khoa học Campbell và Omura được trao giải vì “đã tìm ra cách chữa trị cho các loại bệnh do giun gây ra”. Còn bà Đồ U U nhận giải Nobel Y sinh nhờ tìm ra được chất giúp trị sốt rét, bà Đồ U U trở thành nữ khoa học gia thứ 12 trong lịch sử được nhận giải Nobel Y sinh.

Giải thưởng năm nay còn là một vinh danh cho y học cổ truyền. Công trình chiết xuất Artemisinin từ cây ngải của bà Đồ U U chính là y học cổ truyền. Bà dựa vào y văn cổ của Trung Quốc để tìm dược thảo chữa trị bệnh sốt rét. Phát minh và bào chế Ivermectin (của hai giáo sư Omura và Campbel) cũng có thể xem là một phần của y học cổ truyền và một phần của khoa học hiện đại. Gs Omura phát hiện chất avermectincó khả năng diệt giun chỉ và sán từ một vi sinh vật sống trong đất ở một vùng biển thuộc thị trấn Kawana.

Tất cả 3 nhà khoa học đều làm việc trong thầm lặng, nhưng đem lại lợi ích cho hàng trăm triệu người trên hành tinh. Họ xứng đang nhận giải thưởng năm nay theo đúng lí tưởng của giải Nobel y sinh học, theo di chúc của ông Alfred Nobel, là trao giải thưởng cho những ai đem lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại./.

 Hạ viên

Ôm bệnh do tin ‘bác sĩ’… Google

Chưa có chứng cứ khoa học xác định tính hiệu quả của việc châm kim vào ngón tay để trị đột quỵ. Ảnh: TRẦN NGỌC

“Những thông tin hướng dẫn điều trị bệnh theo phương pháp dân gian được đăng tải trên các trang mạng không chính thống đều không có chứng cứ khoa học. Nếu tin và làm theo lời “phán” của những “bác sĩ” (BS) trên mạng thì nguy cơ bệnh tình thêm nặng” – BS Trần Văn Năm, nguyên Phó Viện trưởng Viện Y dược học dân tộc TP.HCM, khuyến cáo.

Tự trị bệnh theo trang web

Cách đây ba tháng, ông NVH (ở TP.HCM) phát hiện bị tiểu đường type 2 trong lần khám sức khỏe định kỳ. Đang lúc ông H. lo lắng thì có một bà gần nhà rỉ tai: “Trên mạng có giới thiệu bài thuốc trị bệnh tiểu đường type 2 bằng hạt bưởi hay lắm. Người nhà tui sau khi uống nước hạt bưởi một tháng là bệnh giảm hẳn”.

Thế là ông H. quyết định lên mạng tìm hiểu. Sau khi vô Google gõ cụm từ “trị bệnh tiểu đường type 2 bằng hạt bưởi”, ông H. thấy hơn 16.000 kết quả hiện ra. Click vào địa chỉ một trang web, ông H. nhận được thông tin: “Chất nhầy quanh vỏ hạt bưởi có nhiều công dụng quý gồm trị tiểu đường type 2, giảm béo, cầm máu, chống táo bón, kháng khuẩn…”.

Trang web cũng hướng dẫn kỹ cách pha chế: “Cho hạt bưởi vào ly (tối đa 1/3 ly), rót nước đun sôi đã để nguội bớt (khoảng 60-70 độ C), mực nước khoảng 2/3 ly. Ngâm 15 phút, dùng nĩa nhiều răng đánh liên tục khoảng 5- 6 phút rồi gạn lấy nước nhầy cho vào một ly khác. Làm tiếp rồi kiểm tra nếu hạt bưởi hết chất nhầy thì thôi. Uống 50 ml nước nhầy trước bữa ăn 10 phút, ngày ba lần. Dùng liên tục đến khi xét nghiệm đường huyết trở về bình thường thì thôi”.

“Tôi làm đúng theo hướng dẫn nói trên độ hai tháng. Đến tháng thứ ba tôi luôn cảm thấy mệt mỏi, giảm cân nhanh, vết đứt ở tay lâu lành, hay khát nước và đi tiểu nhiều, thường lo âu và cáu gắt vô cớ… Khi có hiện tượng mắt mờ, phù mắt cá chân…, tôi đến bệnh viện và thực sự hoảng hồn khi BS cho biết bệnh tiểu đường của tôi đã chuyển qua biến chứng nặng” – ông H. thở dài.

Chưa có chứng cứ khoa học xác định tính hiệu quả của việc châm kim vào ngón tay để trị đột quỵ. Ảnh: TRẦN NGỌC

Chữa “yếu” thành… “liệt”

Do quan hệ làm ăn nên ông TMP (ở Long An) thường thuốc lá, bia bọt với các đối tác. Cách đây vài tháng, ông P. cảm thấy “bản lĩnh đàn ông” giảm hẳn. Nên khi nghe bạn bè trong lúc “trà dư tửu hậu” kháo nhau có bài thuốc chữa yếu sinh lý bằng gừng tươi và mật ong rất hiệu nghiệm, ông P. vô Google tìm hiểu.

Sau khi gõ cụm từ “chữa yếu sinh lý bằng gừng tươi và mật ong”, ông P. tiếp tục click vào một trang web thì có thông tin sau: “Các hợp chất trong gừng như gingerol, shogaol và zingiberene có tác dụng kích thích mạch máu, tăng cường sự tuần hoàn máu… Do đó gừng được sử dụng như một thực phẩm kích thích tình dục, chữa bệnh yếu sinh lý cho nam giới”.

Trang web hướng dẫn “dùng gừng tươi rửa sạch, cạo vỏ, ép lấy chừng hai muỗng canh nước cốt. Sau đó trộn với lượng mật ong vừa đủ để tạo thành hỗn hợp nước gừng mật ong. Nam giới mắc chứng yếu sinh lý, bất lực nên uống mỗi ngày ba lần. Dùng thường xuyên sẽ có hiệu quả cao”.

“Đều đặn mỗi ngày ba lần, vợ tôi “bào chế” gừng tươi mật ong cho tôi uống. Cả hai vợ chồng thầm mong “bài thuốc” sẽ mang lại tác dụng. Dè đâu tôi luôn rơi vào tình trạng “thằng lớn bảo “thằng nhỏ” không nghe”. Đến bệnh viện, BS cho biết bệnh của tôi đã quá nặng, đáng lý phải đến điều trị sớm hơn thì còn hy vọng…” – ông P. tâm sự.

Chữa đột quỵ bằng… kim may

Mới đây, trao đổi với chúng tôi, bà LTKX (Đồng Nai) cho biết hiện nhiều hộ gia đình chung quanh nơi bà ở truyền nhau một phương thức điều trị đột quỵ bằng kim may. Phương pháp này còn được đăng tải trên mạng để nhiều người cùng biết. Để kiểm chứng, chúng tôi vào Google và gõ cụm từ “chữa đột quỵ bằng kim may”. Quả thật có 560.000 kết quả hiện ra.

Một trang web hướng dẫn như sau: “Khi có người bị đột quỵ không được di chuyển. Hãy giúp bệnh nhân ngồi tại chỗ rồi chích cho máu chảy ra. Nếu có sẵn kim tiêm thì tốt, còn không có thể dùng kim may. Thực hiện các bước sau đây: Hơ kim trên lửa để khử trùng rồi dùng nó để chích 10 đầu ngón tay. Nếu máu không chảy ra được, hãy dùng ngón tay của bạn để nặn ra. Khi tất cả 10 đầu ngón tay đều đã có máu chảy ra, hãy chờ vài phút, nạn nhân sẽ hồi tỉnh. Nếu nạn nhân bị méo miệng, hãy kéo hai tai cho đến khi đỏ lên. Chờ cho đến khi nạn nhân trở lại trạng thái bình thường thì mới chở nạn nhân vào bệnh viện”.

Không có chứng cứ khoa học

Trao đổi với BS Trần Văn Năm, nguyên Phó Viện trưởng Viện Y dược học dân tộc TP.HCM, ông khẳng định tất cả bài thuốc kể trên đều không có chứng cứ khoa học trị được bệnh.

Đối với “bài thuốc” chữa bệnh tiểu đường type 2 bằng hạt bưởi, BS Năm giải thích: “Bệnh tiểu đường cần phải gặp BS chuyên khoa điều trị sớm để tránh biến chứng. Liên tục uống nước nhầy hạt bưởi kết quả chẳng biết ra sao nhưng kéo dài thời gian khiến bệnh dễ trở nặng, gây nhiều biến chứng”.

Riêng “bài thuốc” trị yếu sinh lý, BS Năm cho biết căn bệnh này có nhiều nguyên nhân gây ra như cao huyết áp, tiểu đường, bệnh mạn tính gây suy nhược và suy mòn cơ thể… “Tùy từng nguyên nhân gây bệnh mà có cách điều trị yếu sinh lý khác nhau. Không thể dùng chung một bài thuốc. Trong khi gừng chỉ có tác dụng kháng viêm, kháng khuẩn, giảm đau, kích thích tiêu hóa… Mật ong có tác dụng cung cấp bổ dưỡng, kháng viêm… Khoa học chưa chứng minh gừng tươi trộn mật ong điều trị được yếu sinh lý. Bệnh nhân quá tin vào “bài thuốc” này sẽ khiến việc điều trị về sau của các BS chuyên khoa gặp khó khăn” – BS Năm khuyến cáo.

Nói tới phương pháp chích ngón tay để chữa đột quỵ, BS Năm lưu ý: “Phương pháp nói trên kéo dài thời gian để bệnh nhân ở nhà, gây nguy hiểm tính mạng. Trong điều trị đột quỵ, thời gian tính bằng phút, bằng giây. Do vậy đưa bệnh nhân đến bệnh viện càng sớm thì khả năng cứu sống bệnh nhân càng cao, ít để lại biến chứng”.

Hầu hết người bệnh mang tâm lý “phước chủ may thầy”, nghe có bài thuốc hoặc phương pháp lạ là tìm kiếm và sử dụng. Do là bài thuốc không chính thống nên không hiệu quả, cuối cùng cũng phải gặp BS chuyên khoa để điều trị nhưng không ít trường hợp đã quá trễ, ân hận suốt đời…

BS TRẦN VĂN NĂM, nguyên Phó Viện trưởng Viện Y dược học dân tộc TP.HCM

Theo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh (http://phapluattp.vn/suc-khoe/om-benh-do-tin-bac-si-google-582704.html)

Đơn vị liên kết

thoi gian lam viec







r>

BÀI MỚI