Trang chủ Blog Trang 4

Lan tỏa yêu thương – Gắn kết niềm tin, nâng tầm kiến thức bảo hiểm y tế

Đưa chính sách bảo hiểm đến gần người bệnh

Phát biểu khai mạc chương trình, bà Thạch Thu Phượng – Phó Viện trưởng Viện Y dược học dân tộc, nhấn mạnh: “BHYT và BHXH là hai chính sách an sinh xã hội quan trọng mang tính nhân văn sâu sắc. Việc hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ sẽ giúp người dân chủ động chăm sóc sức khỏe, đồng thời giảm gánh nặng tài chính khi không may ốm đau”.

Với sự tham gia của đại diện Phòng Giám định Bảo hiểm xã hội TP.HCM, các chuyên gia đã trực tiếp phổ biến những điểm mới trong chính sách BHYT – BHXH năm 2025, đồng thời giải đáp thắc mắc thực tiễn liên quan đến khám chữa bệnh bằng BHYT như chuyển tuyến, mất thẻ, tra cứu mã số… Những thông tin này giúp người bệnh và thân nhân tiếp cận chính sách một cách rõ ràng và sát thực hơn.

Tăng cường kết nối – Chăm sóc toàn diện

Không chỉ tập trung vào thông tin chính sách, chương trình còn lồng ghép những chuyên đề sức khỏe thiết thực, như bài chia sẻ “Hiểu biết và điều trị bệnh trĩ” do bác sĩ Trần Văn Lĩnh – Khoa Ngoại Tổng hợp trình bày, và chuyên đề “Tầm quan trọng của vệ sinh tay” do KTV trưởng CKI. Cao Phạm Quang Tri – Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn báo cáo.

Cũng trong khuôn khổ chương trình, 200 phần cháo dinh dưỡng đã được trao tặng đến người bệnh có hoàn cảnh khó khăn – là món quà tinh thần và vật chất mang ý nghĩa sẻ chia từ đội ngũ y bác sĩ, cán bộ nhân viên Viện và các nghệ sĩ đồng hành.

Nghệ thuật – Cầu nối lan tỏa yêu thương

Chương trình “Lan tỏa yêu thương” còn được tô điểm bằng các tiết mục văn nghệ giàu cảm xúc: từ bản nhạc “Hello Việt Nam”, “Một vòng Việt Nam”, đến ca khúc “Sống như những đóa hoa” do các nghệ sĩ đến từ Nhạc viện TP.HCM trình bày. Trong không khí đầy ấm áp, tập thể y bác sĩ, người bệnh và thân nhân cùng đồng ca như một lời nhắn gửi tích cực: “Dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta cũng có thể lan tỏa yêu thương, tiếp thêm hy vọng cho nhau”.

Hành trình y học cổ truyền gắn với nhân văn hiện đại

“Lan tỏa yêu thương” là một điểm nhấn trong nỗ lực của Viện Y dược học dân tộc nhằm lồng ghép khám chữa bệnh y học cổ truyền với chăm sóc tinh thần và truyền thông chính sách an sinh. Qua chương trình, người bệnh không chỉ được chữa lành về thể chất mà còn được tiếp thêm niềm tin, sự an tâm – điều rất cần trong hành trình điều trị.

Viện Y dược học dân tộc cam kết tiếp tục tổ chức nhiều hoạt động tương tự, đặt người bệnh làm trung tâm, hướng đến chất lượng phục vụ ngày càng nhân văn và toàn diện hơn.

Chất lượng thuốc của Viện: nhiều tầng kiểm tra chất lượng trước khi đến tay người dùng

Trong khuôn khổ tìm hiểu về công tác kiểm soát chất lượng thuốc, chúng tôi đã có buổi trao đổi chi tiết với DS CKII Thạch Thu Phượng – Phó Viện trưởng Viện Y dược học dân tộc về hệ thống giám sát chất lượng dược liệu – thuốc cổ truyền được áp dụng chặt chẽ, nhiều lớp tại Viện.

DSCKII. Thạch Thu Phượng – Phó Viện trưởng Viện Y dược học dân tộc

Phóng viên (Pv): Thưa Dược sĩ, Viện Y dược học dân tộc có một lịch sử phát triển lâu dài, vậy những nhiệm vụ trọng tâm về dược liệu của Viện là gì?

DS CKII Thạch Thu Phượng: Viện Y dược học dân tộc được thành lập vào tháng 12/1975. Trong sáu nhiệm vụ được giao, có hai nhiệm vụ quan trọng liên quan trực tiếp đến dược liệu:

Khai thác và phát huy vốn quý y dược học cổ truyền trên cơ sở khoa học, phục vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân, góp phần xây dựng nền y học Việt Nam có tính dân tộc, khoa học, đại chúng.

Nghiên cứu, phối hợp với Viện Dược liệu điều tra, sưu tầm, bảo tồn, trồng trọt và chế biến dược liệu, đảm bảo khả năng ứng dụng trong thực nghiệm và điều trị.

Từ đó, Viện thành lập xưởng sản xuất thuốc nhằm sơ chế, bào chế các thuốc Nam, thuốc Bắc cũng như sản xuất thuốc y học cổ truyền. Do đó, yêu cầu về chất lượng thuốc luôn được đặt lên hàng đầu.

Pv: Viện đã có những bước đi nào để đảm bảo chất lượng trong suốt quy trình từ dược liệu đến thành phẩm?

DS CKII Thạch Thu Phượng: Ngay từ năm 1976, Viện đã thành lập Khoa Thực nghiệm với chức năng chính là:

  • Kiểm tra chất lượng thuốc: kiểm nghiệm dược liệu đầu vào và các chế phẩm thuốc được sản xuất tại Trung tâm Ứng dụng Khoa học công nghệ Đông y – Đông dược bằng các phương pháp phân tích hóa học và vi sinh.
  • Xây dựng tiêu chuẩn cơ sở: phối hợp cùng Khoa Dược thiết lập các tiêu chuẩn chất lượng riêng cho các sản phẩm thuốc y học cổ truyền tại Viện.

Để phục vụ công tác này, Viện đã đầu tư máy móc hiện đại như sắc ký lớp mỏng, đồng thời liên tục cập nhật các quy trình kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, xác lập tiêu chuẩn cơ sở cho các dược liệu chưa có trong Dược điển.

Chúng tôi còn nghiên cứu hạn dùng của thuốc thang sắc, cải tiến các quy trình bào chế dược liệu, luôn đảm bảo cập nhật theo Dược điển Việt Nam và các văn bản pháp luật hiện hành.

Tất cả nhằm đảm bảo rằng: thuốc của Viện luôn là thuốc thật và đạt chất lượng.

Pv: Dược liệu là nguyên liệu tự nhiên, thường có biến động lớn về chất lượng. Viện kiểm soát yếu tố này như thế nào?

DS CKII Thạch Thu Phượng:

Đúng vậy. Khác với nguyên liệu hóa dược – vốn có tính chất lý – hóa học rõ ràng và dễ kiểm nghiệm – thì dược liệu có nguồn gốc thực vật lại chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố: thổ nhưỡng, điều kiện canh tác, thời gian thu hái, kỹ thuật sơ chế, phương pháp bảo quản trong lưu thông…

Do đó, Viện xác định phải xây dựng một chuỗi quy trình khép kín và liên kết chặt chẽ để đảm bảo chất lượng. Các quy trình này được xây dựng căn cứ theo các văn bản pháp luật, đặc biệt là Thông tư số 38/2021/TT-BYT về chất lượng dược liệu, vị thuốc cổ truyền, thuốc cổ truyền.

Chuỗi các quy trình có liên quan lẫn nhau để đạt mục đích đảm bảo chất lượng dược liệu và thuốc cổ truyền hiện nay đang sử dụng tại Viện

Pv: Cụ thể, Viện kiểm soát dược liệu đầu vào như thế nào?

DS CKII Thạch Thu Phượng:

Khi nhà cung cấp tham gia đấu thầu, họ phải nộp đầy đủ hồ sơ dược liệu và thuốc, bao gồm:

  • Nguồn gốc, xuất xứ (C/O),
  • Chứng nhận chất lượng,
  • Phiếu kiểm nghiệm đạt tiêu chuẩn của nhà sản xuất,
  • Dựa theo Dược điển Việt Nam 5 hoặc Dược điển các nước.

Trước khi nhập kho, dược liệu phải trải qua kiểm nhập theo quy trình QT.487.KTN, gồm các bước:

  • Kiểm tra hồ sơ nhà thầu, xác minh không vi phạm quy định về chất lượng do Cục Quản lý Y Dược cổ truyền ban hành.
  • Đối chiếu hóa đơn, nhãn bao bì với hợp đồng thực tế.
  • Nhận xét cảm quan, nếu đạt sẽ lấy mẫu theo quy trình 455.TN.

Mẫu sẽ được kiểm nghiệm các chỉ tiêu:

  • Định tính,
  • Chất chiết trong dược liệu,
  • Mất khối lượng do làm khô (độ ẩm),
  • Tỷ lệ vụn nát, biến màu, hư thối,
  • Hàm lượng kim loại nặng,
  • Dư lượng thuốc bảo vệ thực vật,
  • Định lượng hoạt chất.

Chỉ khi tất cả các chỉ tiêu đều đạt, dược liệu mới được phép nhập kho.

Hình 7: Quy trình Kiểm nghiệm

Pv: Viện từng phát hiện trường hợp giả mạo dược liệu chưa?

DS CKII Thạch Thu Phượng:

Chúng tôi từng gặp khá nhiều ví dụ về giả mạo dược liệu, cụ thể:

  • Một mẫu được bán dưới tên Hy thiêm (Siegesbeckia orientalis L.) thực chất lại là Cúc sít (Synedrella nodiflora).

  • Hoắc hương bị thay thế bằng cỏ lào.

  • Trên thị trường, có nơi bán rễ Serratulae chinensis (Trung Quốc gọi là Thăng ma Quảng Đông) với tên Thăng ma.

Tất cả những mẫu giả mạo này đều bị loại bỏ ngay từ vòng kiểm nghiệm.

Pv: Sau khi dược liệu đạt chất lượng, quá trình sơ chế và phức chế được tiến hành như thế nào?

DS CKII Thạch Thu Phượng:

Viện thực hiện công tác sơ chế – phức chế dược liệu theo Thông tư 14/2024/TT-BYT và các quy trình chế biến do Viện ban hành. Cụ thể:

  • Dược liệu được rửa, sấy, thái phiến, cán sợi, sau đó phức chế bằng phương pháp cổ truyền như sao vàng, chích mật, chích rượu, đồ, nấu, nung
  • Quá trình này được giám sát chặt chẽ bởi đội ngũ dược sĩ có kinh nghiệm, đảm bảo đúng quy trình.

Sau đó, mẫu vị thuốc cổ truyền được kiểm nghiệm theo quy trình QT.461.KTN, gồm:

  • Cảm quan,
  • Định tính,
  • Chất chiết trong dược liệu,
  • Mất khối lượng do làm khô (độ ẩm),
  • Tỷ lệ vụn nát,
  • Định lượng hoạt chất…

Chỉ khi các chỉ tiêu đều đạt, vị thuốc mới được nhập kho bảo quản.

Pv: Kho bảo quản vị thuốc cổ truyền của Viện tuân theo tiêu chuẩn nào, thưa bà?

DS CKII Thạch Thu Phượng:

Kho được vận hành theo tiêu chuẩn GSP, đảm bảo:

  • Nhiệt độ và độ ẩm phù hợp,
  • Phòng chống mối mọt và côn trùng,
  • Kiểm nghiệm định kỳ ngẫu nhiên, để đảm bảo chất lượng được duy trì ổn định.

Pv: Cuối cùng, quá trình bào chế thành phẩm thuốc cổ truyền tại Viện được tổ chức ra sao?

DS CKII Thạch Thu Phượng:

Chúng tôi tuân thủ theo Thông tư 32/2020/TT-BYT, với quy trình khép kín:

  • Cơ sở vật chất, thiết bị sản xuất, hồ sơ tài liệu đều được chuẩn hóa.
  • Sản xuất theo quy trình một chiều, đảm bảo kỹ thuật, vệ sinh và an toàn.
  • quy trình giám sát – ghi nhận sai lệch – xử lý, đảm bảo tính minh bạch.
  • Bộ phận kiểm tra chất lượng đánh giá toàn bộ quá trình sản xuất, cả nguyên liệu, bao bì, sản phẩm trong lưu hành và trong kho.

Các thành phẩm như Viên Kiện cốt, Viên Nguồn sống, Hoàn Tiêu viêm, Bổ khí thông huyết, Huyết phủ trục ứ đều được kiểm nghiệm bán thành phẩm lẫn thành phẩm cuối theo quy trình QT.460.KTN.

Chỉ khi đạt tất cả các tiêu chuẩn cơ sở mới được nhập kho và cấp phát cho người bệnh.

Pv: Với một quy trình dài và phức tạp như vậy, điều gì là nguyên tắc cốt lõi trong công tác kiểm soát chất lượng của Viện?

DS CKII Thạch Thu Phượng:

Từ kiểm nhập dược liệu đầu vào, sơ chế, chế biến, kiểm nghiệm vị thuốc, đến bào chế, kiểm nghiệm thuốc thành phẩm, bảo quản, tất cả được thực hiện liên tục – nghiêm ngặt – khoa học.

Chúng tôi đặt mục tiêu mang đến thuốc cổ truyền chất lượng – hiệu quả – an toàn – hợp lý để phục vụ tốt nhất cho người bệnh và hoàn thành sứ mệnh của Viện.

Pv: Xin trân trọng cảm ơn DS CKII Thạch Thu Phượng đã dành thời gian chia sẻ những thông tin hết sức chi tiết và tâm huyết về công tác kiểm soát chất lượng thuốc cổ truyền tại Viện. Những thông tin này chắc chắn sẽ giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về sự nghiêm túc, khoa học và trách nhiệm trong từng vị thuốc mà Viện mang đến cho người bệnh.

Thông báo tổ chức Lớp đào tạo phổ cập kiến thức Đông y “Đông dược cơ bản – khóa 69”

Tải file Word Phụ lục 1: tại đây

Tải File Word Phụ lục 2: tại đây

Tải file Word Phụ lục 1: tại đây

Tải File Word Phụ lục 2: tại đây

Chất lượng dược liệu qua góc nhìn lịch sử y học cổ truyền

Phóng viên (PV): Trước đây, khi chưa có nhiều công cụ hiện đại, các thầy thuốc đánh giá chất lượng dược liệu dựa vào đâu? Có phải chỉ là kinh nghiệm cảm tính đúng không, thưa bác sĩ?

TS. BS. Trương Thị Ngọc Lan: Ngày xưa, để đánh giá chất lượng dược liệu, chỉ có thể căn cứ theo kinh nghiệm của thầy thuốc. Tuy nhiên, do sự bất đồng về tên gọi giữa các vùng, một thuốc có thể có nhiều tên gọi khác nhau, hoặc do điều kiện thổ nhưỡng có phù hợp với dược liệu đó hay không, nên chất lượng dược liệu chỉ được đánh giá một cách cảm tính.

PV: Vậy hiện nay, để đánh giá chất lượng dược liệu và vị thuốc y học cổ truyền, chúng ta dựa vào những tiêu chuẩn, quy định nào? Có thay đổi nhiều so với trước không?

TS. BS. Trương Thị Ngọc Lan: Ngày nay, việc đánh giá chất lượng dược liệu đã có nhiều bước tiến. Từ năm 1954, sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc, ngành Dược bắt đầu xây dựng Dược điển Việt Nam (DĐVN) nhằm tiêu chuẩn hóa thuốc. DĐVN I được ban hành năm 1970, gồm 572 chuyên luận, trong đó có 120 dược liệu. Đây là nền móng đầu tiên để quyết định tên gọi, nguồn gốc, chất lượng của dược liệu.

Sau đó, nhiều phiên bản Dược điển tiếp tục được cập nhật:

  • DĐVN II (1991, 1994) với các chuyên luận về dược liệu, chế phẩm bào chế và phương pháp kiểm nghiệm hiện đại.
  • DĐVN III (2002) bổ sung kỹ thuật kiểm nghiệm tiên tiến, nâng cao tiêu chuẩn chất lượng.
  • DĐVN IV (2009)DĐVN V (2015) áp dụng công nghệ thông tin, tăng số lượng chuyên luận lên 1519, trong đó có 372 về dược liệu và thuốc từ dược liệu.

Nhờ đó, Dược điển Việt Nam đã trở thành tài liệu kỹ thuật chính thống, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng thuốc.

Bìa Dược điển Việt Nam V – Nhà xuất bản Y Học

PV: Thưa bác sĩ, dược liệu cổ truyền vốn rất đa dạng, vậy trong nước đã có những bộ tài liệu hay văn bản pháp luật nào giúp chuẩn hóa và nâng cao chất lượng dược liệu?

TS. BS. Trương Thị Ngọc Lan: Rất nhiều văn bản đã được ban hành nhằm kiểm soát chất lượng dược liệu ở các khâu từ nhận diện, trồng trọt, thu hái, chế biến đến bảo quản. Cụ thể:

  1. Nhận diện và thu hái dược liệu:
    • DĐVN các phiên bản mô tả đặc điểm nhận dạng, ảnh minh họa.
    • Quyết định 774/QĐ-BYT (2008): Hướng dẫn GACP-WHO, quy định tiêu chuẩn trồng, thu hái.
    • Quyết định 3812/QĐ-BYT (2021): Hướng dẫn kỹ thuật chi tiết cho gần 80 loại dược liệu.
    • Quyết định 4829/QĐ-BYT (2018): Danh mục dược liệu được sử dụng trong sản xuất thuốc cổ truyền.
    • Thông tư 13/2018/TT-BYT: Kiểm tra chất lượng dược liệu nhập khẩu.
  2. Chế biến và bào chế vị thuốc:
    • DĐVN V (2017): Mô tả chi tiết phương pháp chế biến từng vị thuốc.
    • Quyết định 3512/QĐ-BYT (2012): Hướng dẫn kỹ thuật bào chế 127 vị thuốc y học cổ truyền.
    • Thông tư 13/2018/TT-BYT: Quy định tiêu chí kiểm nghiệm sau bào chế.
  3. Bảo quản dược liệu:
    • DĐVN V: Ghi rõ điều kiện và bao bì bảo quản.
    • Quyết định 774/QĐ-BYT: Kho bảo quản cần đảm bảo nhiệt độ, độ ẩm, chống sâu mọt.
    • Quyết định 3512/QĐ-BYT: Không trộn lẫn các lô, không dùng bao bì cũ.
    • Quyết định 3812/QĐ-BYT: Hướng dẫn chi tiết các phương pháp bảo quản phù hợp với từng loại dược liệu.

PV: Hiện nay, tình trạng dược liệu giả, kém chất lượng vẫn còn diễn ra. Bộ Y tế có những biện pháp gì để ngăn chặn các hành vi gian lận thương mại này?

TS. BS. Trương Thị Ngọc Lan: Để phòng tránh các hành vi gian lận như dùng dược liệu giả, trộn hóa chất, giả danh xuất xứ…, Bộ Y tế đã ban hành nhiều văn bản pháp luật như:

  • Thông tư 13/2018/TT-BYT: Quy định bắt buộc kiểm nghiệm nhiều chỉ tiêu.
  • Quyết định 3812/QĐ-BYT (2021): Kiểm soát từ vùng trồng, truy xuất nguồn gốc.
  • Thông tư 11/2018/TT-BYT: Quản lý thuốc cổ truyền, dược liệu.
  • Thông tư 48/2018/TT-BYT: Quy định về thực hành tốt bảo quản thuốc.
  • Quyết định 774/QĐ-BYT: Hướng dẫn GACP-WHO.
  • Luật Dược 105/2016/QH13: Cấm buôn bán dược liệu giả, không rõ nguồn gốc.

Tất cả các quy định này giúp ngăn chặn sai sót trong thu hái, sơ chế, bào chế, bảo quản và sử dụng dược liệu, góp phần đảm bảo chất lượng, hiệu quả và an toàn cho người sử dụng.

PV: Xin cảm ơn TS. BS. Trương Thị Ngọc Lan đã dành thời gian chia sẻ những thông tin quý báu về hệ thống văn bản pháp luật và kỹ thuật hỗ trợ kiểm soát chất lượng dược liệu trong y học cổ truyền. Qua cuộc trao đổi này, hy vọng người đọc sẽ hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của việc chuẩn hóa và nâng cao chất lượng dược liệu, góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng và phát triển bền vững nền y học truyền thống của Việt Nam.

Chất lượng dược liệu qua góc nhìn lịch sử y học cổ truyền

Phóng viên (PV): Thưa bác sĩ, trong lịch sử Y học cổ truyền, chuyện thuốc giả và thuốc kém chất lượng có ảnh hưởng thế nào đến điều trị?

TS.BS Trương Thị Ngọc Lan (TS. BS. Lan): Thật ra, đây là câu chuyện dài và đã được ghi lại rất rõ trong các y thư cổ, hồi ký y gia, cũng như truyền miệng từ xưa đến nay. Chất lượng thuốc kém không chỉ gây mất tác dụng mà còn dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, từ sai lầm trong nhận dạng, thu hái, chế biến, bảo quản cho đến sự gian dối trong thương mại.

PV: Cụ thể về sai lầm trong nhận dạng dược liệu thì sao, thưa bác sĩ?

TS. BS. Lan: Sai lầm trong nhận dạng có thể do không hiểu biết hoặc cố tình gian lận. Ví dụ, cây lá ngón thuộc họ mã tiền có hai loại: một loại độc, một loại không độc. Ở vùng Mường So, Lai Châu, người dân dùng lá ngón không độc làm rau ăn. Tuy nhiên, mỗi năm vẫn có nhiều trường hợp ngộ độc lá ngón do nhầm lẫn với các loại rau rừng khác hoặc dùng rễ, lá ngón độc để chữa bệnh xương khớp.

Ngoài ra, có những trường hợp cố tình đổi tên và thổi phồng công dụng thuốc để bán giá cao, điển hình như “Tuyết yến”. Năm 2018, khi một phóng viên hỏi tôi về công dụng của Tuyết yến, tôi rất ngỡ ngàng vì chưa từng nghe tên này, đồng thời giá 1 kg Tuyết yến lúc đó lên tới 10 triệu đồng. Tra cứu trên baike.baidu của Trung Quốc thì biết đây là mủ của cây Sterculia, hay còn gọi là Mủ trôm ở Việt Nam. Giá mủ trôm ở Việt Nam chỉ khoảng 500.000 đồng/kg, sau khi xuất sang Trung Quốc ngâm thành sợi, sấy khô gọi là Tuyết yến, bán trên Taobao với giá 450 NDT/kg (~1,5 triệu VND/kg). Khi nhập lại Việt Nam, nó được gọi là “Thánh dược dưỡng nhan” với giá lên tới 10 triệu đồng/kg.

PV: Còn sai lầm trong khâu thu hái thì sao, thưa bác sĩ?

TS. BS. Lan: Nếu thu hái đúng nguyên tắc thì hàm lượng hoạt chất đạt tối đa. Mỗi dược liệu có thể chứa nhiều hoạt chất, hàm lượng thay đổi theo mùa, chu kỳ phát triển. Thu hoạch đúng thời gian giúp thu nhận dược liệu chứa hoạt chất cao nhất.

Tuy nhiên, vì không biết hoặc do lý do kinh tế, nhiều trường hợp thu hái không đúng thời điểm. Ví dụ cây quế Việt Nam, một trong những loại quế tốt nhất thế giới, yêu cầu cây trên 8 năm tuổi, thu hái vào mùa thu (tháng 8 – 9 Dương lịch) để vỏ dày, hàm lượng hoạt chất cao. Nhiều trường hợp thu hái sớm, vỏ quế mỏng, hàm lượng hoạt chất giảm.

PV: Vậy chế biến dược liệu có phải là khâu quan trọng không?

TS. BS. Lan: Các thầy thuốc và sách cổ đã ghi nhận rất chi tiết.

  • Thần Nông Bản Thảo Kinh ghi rõ những vị “có độc, cần chế” như Phụ tử phải nấu kỹ, bỏ lõi để giảm độc aconitin, Ô đầu nếu dùng sống gây tê liệt hô hấp, chế đúng thì chữa đau nhức rất hiệu quả.
  • Bản Thảo Cương Mục của Lý Thời Trân phê phán việc chỉ biết tên thuốc mà không hiểu lý do sao chế, làm thuốc mất công dụng và tổn hại người dùng.

Sách còn ghi chú cách chế biến thay đổi tính vị, ví dụ: “Cam thảo sinh tả, thục bổ”; “Hoàng liên sao rượu dẫn vào tâm, sao muối dẫn vào thận”.

  • Bào chế đại pháp thời Minh ghi chép các tai nạn y học do dùng dược liệu chưa chế biến kỹ như mã tiền không bóc vỏ, không ngâm nước vôi gây liệt hô hấp; Ban miêu (bọ cạp lửa) dùng liều cao không sao chế dẫn tới tử vong.
  • Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh của Lê Hữu Trác: “Sao chưa đủ lửa thì còn hàn, sao quá tay thì hóa hỏa, một vị thuốc mà sinh hai đường hại – lợi.”

PV: Bảo quản dược liệu cũng có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng đúng không, thưa bác sĩ?

TS. BS. Lan: Chính xác. Danh y Lê Hữu Trác (Hải Thượng Lãn Ông) từng ghi lại một trường hợp kê đơn thuốc nhưng bệnh nhân lại bị tiêu chảy nặng do thuốc đã bị mối mọt, ẩm mốc, không còn chất lượng nữa. Qua đó, ông nhấn mạnh ngay cả khi vị thuốc đúng, liều lượng đúng, bệnh đúng nhưng dược liệu bảo quản kém cũng gây hại và không có tác dụng.

PV: Câu chuyện về sự gian dối trong thương mại thuốc cổ truyền thì sao, bác sĩ?

TS. BS. Lan: Đây là vấn đề phức tạp và đã xảy ra từ rất lâu. Ví dụ trong thời Pháp thuộc, dược liệu Trung Quốc nhập vào Việt Nam diễn ra phổ biến. Tuy nhiên, một số thương nhân đã lợi dụng điều này để trộn lẫn hoặc thay thế dược liệu bằng các chất kém chất lượng, như “Mộc hương” quý bị làm giả bằng vỏ cây tẩm hương liệu, dẫn đến ngộ độc nghiêm trọng.

Theo Y sử tạp lục, thời Đường có vụ án xảy ra vì dùng Hoàng liên giả: Một hiệu thuốc ở Lạc Dương trộn rễ hoàng bá non vào gói thuốc hoàng liên – vì màu giống. Người bệnh bị tiêu chảy không dứt vì tính hàn của hoàng bá quá mạnh, dẫn đến tử vong. Vụ việc khiến quan phủ ra lệnh kiểm định dược liệu tại các hiệu thuốc hàng quý.

Theo “Y án thời Thanh”, một làng ở Triết Giang mua phải nhân sâm tẩm thạch tín (asenic) để tăng trọng lượng và giữ tươi. Nhiều bệnh nhân suy nhược, dùng sâm này bị rối loạn tiêu hóa, nôn ra máu, run tay chân. Gây ra hơn 30 trường hợp tử vong, sau đó triều đình cấm thương nhân không rõ nguồn gốc buôn sâm.

Năm 2019, công ty dược phẩm truyền thống nổi tiếng của Trung Quốc – Đồng Nhân Đường – bị phát hiện sử dụng nguyên liệu hết hạn để sản xuất thuốc. Vụ việc này đã gây chấn động dư luận và làm dấy lên lo ngại về chất lượng dược phẩm truyền thống tại Trung Quốc.

PV: Về độc tính của một số vị thuốc trong y học cổ truyền thì sao?

TS. BS. Lan: Có nhiều vị thuốc chứa độc tính nhưng nếu sử dụng đúng cách sẽ có hiệu quả, còn dùng sai hoặc không chế biến kỹ có thể gây nguy hiểm. Trong lịch sử Trung Quốc, thuốc luyện đan chứa kim loại nặng như thủy ngân, asen đã gây nhiều vụ ngộ độc và tử vong, bao gồm các hoàng đế nổi tiếng như Tần Thủy Hoàng, Ung Chính.

PV: Thưa bác sĩ, hiện nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại, cũng như những bài học từ lịch sử sử dụng thuốc có độc trong y học cổ truyền, chúng ta đã rút ra được những kinh nghiệm gì trong việc đảm bảo an toàn và chất lượng của dược liệu?

TS.BS. Lan: Do phát triển của Khoa học kỹ thuật phân tích được các thành phần hoạt chất, các kim loại nặng…của dược liệu, cũng như các qui trình nghiên cứu tiền lâm sàng trên động vật để phát hiện liều độc LD50, và độc tính trường diễn:

  • Ngộ độc do dùng dược liệu chứa Aristolochia (Quảng phòng kỷ). Nghiên cứu của Trường cao đẳng Hoàng Gia London phát hiện acid aristolochic trong Aristolochia gây bệnh thận và ung thư. Vào thập niên 90, tại Bỉ, nhiều phụ nữ bị suy thận do dùng thảo dược này.

  • Ở Việt Nam, nhiều cây mới được cho là chữa bá bệnh, nhưng qua nghiên cứu có độc tính như cây Lược vàng, cây nở ngày đất. Ví dụ, lá Lược vàng khi làm thí nghiệm trên chuột thì kết quả cho thấy nếu dùng 2.100g lá tươi/kg thể trọng thì làm chết 50% số chuột, còn dùng 3.000g lá tươi/kg thể trọng thì toàn bộ số chuột thí nghiệm đều chết. Do đó đã có những khuyến cáo sử dụng thận trọng với dược liệu này.

Cây nở ngày đất đã được sử dụng trong nền y học dân tộc của nhiều nước. Khoa học cũng chứng minh các công dụng này trên các nghiên cứu động vật. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào trên người, và cây đã từng được bày bán tràn lan với những công dụng được đồn thổi “trên trời” ở Thành phố Hồ Chí Minh, Một số nghiên cứu cho thấy cây nở ngày đất có độc tính ở dạng tươi. Nếu dùng quá liều có thể ngộ độc. Các triệu chứng ngộ độc như run cơ, hoa mắt, chóng mặt, mất nhận định phương hướng. Nếu dùng trên 200gr cây có thể gây tổn thương thận mạn tính. 

Tóm lại, những yếu tố ảnh hưởng chất lượng và an toàn thuốc trong lịch sử:

  • Thu hái sai thời điểm: dược tính chưa đạt (vỏ quế), độc tố còn cao (phụ tử chưa chế biến)
  • Chế biến không đúng quy trình: không sao, tẩm đúng kỹ thuật nên giữ lại độc tính
  • Bảo quản kém: ẩm mốc sinh độc tố hoặc giảm hoạt chất
  • Dược liệu giả, nhầm lẫn: vỏ cây giả làm hoàng kỳ, nhân sâm giả từ củ cải…
  • Dược liệu hết hạn, hư hỏng: vẫn bán vì tiếc tiền hoặc thiếu hiểu biết
  • Thay thế thảo dược rẻ tiền: dược tính khác nhưng màu, mùi, vị tương tự
  • Khoa học chưa phát triển, nhiều thuốc được dùng theo kinh nghiệm, sau này mới xác nhận độc tính (Quảng phòng kỷ, cây nở ngày đất, cây Lược vàng…)

PV: Vậy theo bác sĩ, trong lịch sử, chất lượng thuốc y học cổ truyền dựa trên tiêu chí nào?

Trong Y học cổ truyền, đặc biệt là qua sách kinh điển “Thần Nông Bản Thảo Kinh” – bộ dược thư cổ nhất của Trung Quốc (khoảng thế kỷ II TCN – Hán Vũ Đế), dược liệu được phân thành 3 nhóm Thượng phẩm – trung phẩm dựa trên:

  • Tác dụng tổng thể (bổ, trị, độc)
  • Mức độ an toàn
  • Mục đích sử dụng (dưỡng sinh, điều trị bệnh, công kích bệnh cấp)

Từ đó đã phân 365 vị thuốc thành: 120 thượng phẩm, 120 trung phẩm, 125 hạ phẩm với các tiêu chí phân loại:

Từ các sách về dược sau này như Bản thảo cương mục, tiêu chí đánh giá thuốc Thượng phẩm, Trung phẩm, Hạ phẩm cũng tương tự như vậy:

Với ứng dụng hiện đại của Thuốc Y học cổ truyền:

+ Thượng phẩm thường được xem là dược thực đồng nguyên (thức ăn làm thuốc hay thuốc làm thức ăn) như dùng trong thực dưỡng, trà dược, món ăn trị liệu: chuối là thức ăn cũng có thể làm thuốc nhuận tràng, Kỷ tử, Đương quy, Xuyên khung làm thuốc nhưng cũng có thể dùng trong các món tiềm, hầm…

+ Trung phẩm là thuốc chữa bệnh có tính bổ, có thể dùng lâu dài nhưng cần theo dõi.

+ Hạ phẩm tương đương với thuốc công kích, dễ gây phản ứng phụ hoặc độc tính  nếu dùng sai.

Ngoài ra về chất lượng thuốc thầy thuốc y học cổ truyền trong lịch sử cũng chú trọng một số yếu tố:

+ Chất lượng dược liệu gắn liền với địa phương trồng  như Ngưu tất tốt nhất ở Hưng Yên, Thiên niên kiện ở Quảng Nam, Đinh lăng ở Nam Định – Hà Nam

+ Thời điểm thu hái quyết định hoạt chất: Lá nên hái trước trổ hoa, Rễ nên thu vào cuối mùa sinh trưởng

+ Phương pháp sơ chế – chế biến như sao, tẩm, nấu, phơi… ảnh hưởng dược tính và độc tính của thuốc.

PV: Xin bác sĩ cho biết thêm về những lời dặn dò trong các sách cổ về chất lượng dược liệu?

TS. BS. Lan: Trong sách cổ ở Việt Nam và Trung Quốc:

Hải Thượng Lãn Ông (Lê Hữu Trác) trong “Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh” nhấn mạnh: “Thuốc có đúng vị, đúng tính, đúng lượng, đúng bệnh mới hiệu nghiệm.” Ông đặc biệt quan tâm đến: Vùng trồng dược liệu, Cách chế biến theo bài bản, Dược liệu “thuần Việt” dễ kiếm và hiệu quả.

Các sách cổ Y học cổ truyền Trung Quốc:

+ Rất chú trọng đến “Địa phương dược”: Xuyên khung tốt nhất ở Tứ Xuyên, Đỗ trọng vùng Trùng Khánh, Hoàng kỳ vùng Cam Túc. Thậm chí tên thuốc được đặt kèm địa danh như Xuyên Bối mẫu, Triết bối mẫu, Hoài ngưu tất…

+ Nhấn mạnh “Thiên thời – địa lợi – nhân hòa”: Mùa vụ thu hái đúng thời khí, Vùng đất đặc biệt (thổ nhưỡng, khí hậu), Người chế biến lành nghề

+ Phép “Bào chế”rất quan trọng: Sao vàng, sao tẩm, tẩm rượu, tẩm gừng, chưng, hấp, nấu…Làm tăng tác dụng, giảm độc tính, điều vị…

Những câu chuyện trên cho thấy, sai lầm trong chất lượng dược liệu không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị, mà có thể dẫn tới hậu quả nghiêm trọng, thậm chí tử vong. Cả trong lịch sử Việt Nam và Trung Quốc, các danh y chân chính luôn:

  • Kiểm soát nghiêm ngặt nguồn gốc – chế biến – bảo quản
  • Chọn thuốc “đúng vị – đúng bệnh – đúng lúc – đúng lượng – đúng chất”

PV: Xin cảm ơn TS.BS Trương Thị Ngọc Lan đã chia sẻ những kiến thức rất quý giá về chất lượng dược liệu qua góc nhìn lịch sử y học cổ truyền.

TS. BS. Lan: Rất vui được chia sẻ. Tôi mong rằng việc hiểu rõ lịch sử và những bài học xưa sẽ giúp chúng ta luôn chú trọng đến chất lượng dược liệu, bảo vệ sức khỏe cộng đồng tốt hơn.

Đơn vị liên kết

thoi gian lam viec







r>

BÀI MỚI