Bệnh tâm thần phân liệt có thể gây ra ảo giác, ảo tưởng, dẫn đến những hành vi gây nguy hiểm cho chính bệnh nhân và người khác.
Theo tiến sĩ Trương Thị Ngọc Lan, Phó Viện trưởng Y Dược học Dân tộc TP HCM, tâm thần phân liệt là một loại bệnh tâm thần nặng, trung bình cứ trong 100 người dân thì có một trường hợp mắc, với mức độ từ nhẹ đến nặng khác nhau. Bệnh biểu hiện dưới nhiều dạng, song đều có chung đặc điểm là ảnh hưởng đến các hoạt động tinh thần, về lâu dài có thể làm thay đổi nhân cách của bệnh nhân.
Các nghiên cứu ghi nhận bệnh tâm thần phân liệt thường khởi phát triệu chứng ở người trẻ và kéo dài suốt cả cuộc đời. Trong thời gian này, bệnh nhân có biểu hiện xa lánh mọi người, ít nói chuyện với người thân, trở nên trầm tư, lo âu hay sợ hãi. Thông thường, bệnh phát nhanh với các triệu chứng cấp tính xuất hiện trong vài tuần, song cũng có thể chậm trong nhiều tháng, nhiều năm.
Hiện nay các nhà khoa học chưa xác định được nguyên nhân chủ yếu gây bệnh tâm thần phân liệt. Người ta tin rằng bệnh này do một số yếu tố phối hợp gây ra, chẳng hạn như:
Yếu tố di truyền: Bệnh tâm thần phân liệt có khuynh hướng di truyền trong gia đình. Thông thường tỷ lệ mắc là 1% dân số. Đặc biệt, nếu cha mẹ bị tâm thần phân liệt thì tỷ lệ mắc bệnh ở các con tăng đến 12%.
Yếu tố sinh hóa: Vài chất hóa học trong não được cho là góp phần gây ra bệnh này, nhất là dopamine.
Yếu tố gia đình: Hiện chưa có bằng chứng khẳng định sự bất ổn trong gia đình gây ra bệnh tâm thần phân liệt. Tuy nhiên người ta nhận thấy bệnh nhân tâm thần phân liệt dễ tái phát hơn nếu sống trong bầu không khí gia đình căng thẳng.
Yếu tố môi trường: Môi trường xung quanh quá nhiều sang chấn (stress) có thể góp phần thúc đẩy xuất hiện bệnh tâm thần phân liệt.
Người bị tâm thần phân liệt có thể bị các triệu chứng điển hình nghiêm trọng như:
Hoang tưởng: Là những ý tưởng sai lầm, không phù hợp với thực tế, do bệnh tâm thần gây ra nhưng bệnh nhân lại cho là đúng, không thể giải thích hay phê phán được. Nội dung hoang tưởng rất đa dạng, thường gặp nhất là:
– Hoang tưởng tự cao: Ví dụ tưởng mình là tướng chỉ huy quân đội mặc dù chưa từng đi bộ đội. Bệnh nhân nghĩ rằng mình có thể chữa được các loại bệnh khó như ung thư dù họ chưa từng học ngành y.
– Hoang tưởng bị hại: Ví dụ bệnh nhân nghĩ rằng hàng xóm hay người trong gia đình đang tìm cách đầu độc mình.
– Hoang tưởng bị chi phối: Người bệnh nghĩ rằng có một thế lực vô hình nào đó đang kiểm soát mọi suy nghĩ hay hành động của mình.
Tùy theo từng thể hoang tưởng, bệnh nhân sẽ có một số phản ứng tương ứng. Chẳng hạn như từ chối ăn cơm chung với gia đình và tự nấu ăn riêng vì nghi ngờ có người đang tìm cách đầu độc mình.
Ảo thanh: Bệnh nhân nghe một hay nhiều giọng nói tưởng tượng vang lên trong đầu hay bên tai. Nội dung của ảo thanh thường là đe doạ, buộc tội, chửi bới hay nhạo báng. Họ sẽ có một số phản ứng tùy theo nội dung của ảo thanh. Chẳng hạn, họ sẽ bịt tai khi nghe thấy ảo thanh là chửi bới. Bệnh nhân sẽ có hành vi tự vệ nếu nội dung của ảo thanh là đe doạ, thậm chí có thể giết người mà nghĩ là đang tự vệ.
Rối loạn khả năng suy nghĩ: Lời nói của bệnh nhân trở nên khó hiểu. Đang nói họ chuyển sang chuyện khác hoặc đột ngột ngưng lại rồi một lúc sau mới nói tiếp chủ đề cũ. Đôi khi bệnh nhân nói lung tung đến nỗi người nghe không hiểu họ nói gì.
Bệnh nhân tâm thần phân liệt có thể kèm theo số triệu chứng ít nghiêm trọng hơn như:
Mất ý muốn làm việc: Bệnh nhân không thể tiếp tục làm việc tốt tại cơ quan hay học tập tốt trong trường học. Trường hợp nặng hơn có thể không còn làm tốt được các công việc đơn giản hằng ngày như quét nhà, giặt giũ, nấu ăn. Nặng nhất là bệnh nhân không còn chú ý đến vệ sinh cá nhân, không tắm rửa, ăn uống kém. Lưu ý: Tình trạng này do bệnh gây ra chứ không phải bệnh nhân lười biếng.
Giảm sự biểu lộ tình cảm: Sự biểu lộ tình cảm của bệnh nhân bị giảm sút nhiều. Họ không phản ứng trước các sự kiện vui buồn hoặc ngược lại tỏ ra buồn bã khi có sự kiện vui và vui cười khi có chuyện buồn.
Cách ly xã hội: Bệnh nhân không muốn tiếp xúc với người khác, không nói chuyện với cả những người thân trong gia đình. Điều này có thể do bệnh làm cho khả năng nói chuyện bị giảm sút hoặc bệnh nhân không muốn tiếp xúc với người khác vì hoang tưởng sợ ai đó hại mình.
Không nhận thức được bản thân bị bệnh: Thông thường nhiều bệnh nhân tâm thần phân liệt không nghĩ mình bị bệnh nên từ chối đến gặp bác sĩ để chữa trị.
Bác sĩ Ngọc Lan khuyên các gia đình nếu phát hiện người nào có một hoặc vài triệu chứng trên, cần đưa bệnh nhân đến bác sĩ tâm thần để thăm khám và điều trị càng sớm càng tốt. Tâm thần phân liệt là bệnh mạn tính cần điều trị suốt đời, ngay cả khi triệu chứng đã giảm bớt. Điều trị bao gồm dùng thuốc và liệu pháp tâm lý xã hội. Trong thời kỳ khủng hoảng hoặc bệnh nhân có các triệu chứng nặng nên nhập viện để đảm bảo an toàn cho mình và cho cộng đồng, chăm sóc tốt, dinh dưỡng hợp lý, ngủ đủ, vệ sinh thân thể cơ bản.
Dấu hiệu nhận biết người mắc bệnh tâm thần phân liệt
Công dụng của nấm Linh chi
Linh chi có nhiều tên gọi: nấm Vạn năm, nấm thần tiên. Tên Việt Nam là Linh chi, LingZhi (tiếng Trung Quốc), Reishi (tiếng Nhật bản). Tên khoa học: Ganoderma lucidum (Leyss ex Fr.) Karst.
Linh chi được dùng chữa bệnh từ hàng ngàn năm và được xếp hạng Thượng dược (vị trí số 1) trên cả Nhân sâm [theo Thần Nông Bản Thảo].
Gần đây, một số nơi bán vài loại nấm mềm (có thể bóp vụn) dạng như các nấm làm thực phẩm khác và ghi tên là nấm Linh chi, chúng ta cần tìm hiểu để tránh sử dụng nhầm lẫn.
Hoạt chất của Linh chi là gì (thành phần của Linh chi):
Thành phần hoạt chất của Linh chi tuỳ thuộc nguồn gốc và cách nuôi và môi trường trồng nhưng hầu như Linh chi chứa các thành phần sau:
– Giá trị dinh dưỡng: Nấm Linh chi chứa 90% nước, 10% còn lại gồm: 10 – 40% protein, 2 – 8% chất béo, 3 – 28% carbohydrate, 3-32% chất xơ, 8- 10% chất tro, vài vitamin, chất khoáng (Kali, Ca, P, Mg, selenium, Fe, Zn, Cu) [Borchers et al. 1999]. Chất protein trong nấm chứa tất cả các acid amine trọng yếu đặc biệt có 2 acid amin lysine và leucine. (Chang and Buswell 1996; Borchers et al. 1999; Sanodiya et al. 2009).
– Giá trị dược học: Có 3 hoạt chất có tác dụng sinh học chính là Polysaccharides, peptidoglycans, triterpenes [Boh et al. 2007; Zhou et al.2007]. Đặc biệt loại Polysaccharide beta 1,3D glucan, acid ganoderic A, Ganoderiol F. Trong nấm Linh chi nguồn gốc từ Nhật trồng tại Việt Nam (Trung tâm nghiên cứu Linh chi và nấm dược liệu, Quận 12) có chứa acid ganoderic B (đã nghiên cứu thực nghiệm cho kết quả kháng tế bào ung thư).
Linh chi có tác dụng gì?
Linh chi có tác dụng tốt trên các bộ của cơ thể như sau:
– Hệ miễn dịch: điều biến (kích thích khi hệ miễn dịch hoạt động kém và ức chế khi hệ miễn dịch hoạt động quá mạnh) hệ miễn dịch. Hỗ trợ điều trị bệnh viêm gan siêu vi (tăng hoạt động tế bào miễn dịch, giúp cơ cơ thể sản xuất interferon; chống dị ứng, chống viêm (do acid ganoderic); chống gốc tự do,…
– Giúp ổn định đường huyết, giảm cholesterol xấu, giảm Triglyceride,
– Chống stress tâm – thể, tăng chất lượng giấc ngủ,
– Điều hoà huyết áp, cải thiện tiêu hoá…
– Nhờ vào chất polysaccharide beta 1,3D glucan là chất antioxidant có lợi trong điều trị bệnh ung thư.
– Phòng bệnh: tốt nhất là sau tuổi trưởng thành, có thể dùng nấm ở dạng trà với liều thấp khoảng 5 – 10g / ngày. Khi đã bị bệnh tuổi nào cũng có thể sử dụng được, liều lượng phụ thuộc vào tuổi, cân nặng và loại bệnh.
Nên sử dụng Linh chi thế nào để đạt hiệu quả tốt nhất:
Các cách sau đây:
– Cho 15 – 30 g nấm cắt lát vào 2 lít nước, đun sôi, để nhỏ lửa trong 10 phút. Sau đó vớt nấm ra cắt mỏng, cho vào phần nước cũ, tiếp tục nấu sôi nhẹ trong 10 phút nữa. Có thể cho thêm ít đường hoặc mật ong tốt vào uống lúc còn ấm hoặc nguội, bã Linh chi còn lại có thể nấu lần 2 với lượng nước từ 1 – 1,5 lít để thu hết hoạt chất.
– Cho Linh chi cắt lát vào bình thuỷ, đổ nước sôi vào hãm trong 1 giờ, uống dần trong ngày.
– Xay thành bột: cho 3 – 5g bột Linh chi vào tách, hãm với nước sôi trong 5 phút, sau đó uống cả nước lẫn bột, đây là cách tốt nhất theo các nhà khoa học. Một số hoạt chất có thể không ra hết khi nấu hoặc hãm sôi mà còn lại trong phần xác nấm. Vì phần bột nấm là chất xơ, nếu người bệnh bị viêm loét dạ dày, cần uống sau ăn khoảng 30 phút hoặc hỏi ý kiến của thầy thuốc.
Nên sử dụng Linh chi dạng tươi (không phơi hay sấy khô) không?
– Mặc dù nấm Linh chi tươi có công dụng và cách dùng gần giống như nấm khô. Tuy nhiên khi sơ chế, sấy khô với nhiệt độ thích hợp các hoạt chất trong nấm sẽ tăng lên so với nấm dạng tươi. Khi sấy khô nấm gây giảm lượng nước, hàm lượng hoạt chất cao nếu tính trên khối lượng nấm đó chỉ là một lý do. Nhưng quan trọng khi phơi sấy ở nhiệt độ thích hợp sẽ kích hoạt một số chất mà ở dạng nấm tươi không có được.
– Nấm khô bảo quản sẽ tốt hơn, hạn chế tối đa sự phát triển của nấm mốc,
– Dù là dạng “nấm tươi” nhưng thực chất là đã hoá gỗ nên rắn cứng không dùng ăn như các loại nấm ăn khác.
– Chỉ có thể dùng Linh chi tươi hoặc sấy khô ở dạng nấu canh hay soup như sau: nấu Linh chi như dạng canh, hoặc dùng chưng hay hầm với thịt tạo thành món súp có vị đắng của Linh chi kèm các vị khác của thịt, gia vị… rất đặc trưng. Món súp hay canh này rất tốt cho sức khoẻ người vừa trải qua cơn bệnh nặng, người cao tuổi hay đang trong quá trình hoá – xạ để chữa bệnh ung thư.
Tóm lại, các “nấm Linh chi tươi” mềm bóp dễ vỡ là không phải nấm Linh chi thực sự, cần tránh nhầm lẫn. Giống như các loại thực phẩm khác khi bảo quản trong tủ lạnh lâu ngày một số hoạt chất hoặc vitamin… sẽ bị mất hoặc giảm chất lượng. Do đó, với một loại nấm làm thuốc (nấm dược liệu) như nấm linh chi nếu giữ lạnh để sử dụng lâu dài là không phù hợp. Nấm Linh chi sử dụng ở dạng phơi hay sấy khô là tốt nhất.
Theo: BS Trần Văn Năm
Dời lịch chiêu sinh lớp Lý thuyết châm cứu trung cấp khóa 67
Viện Y dược học dân tộc TP. Hồ Chí Minh thông báo chương trình phổ cập kiến thức đông y chiêu sinh lớp Lý thuyết châm cứu trung cấp 66 như sau:
TS. BS. Nguyễn Hoàng Việt, BS.CKI Hoàng Phương Nhi, ThS.BS.Trương Đỗ Anh Huy, BS.Lê Đức Trí
Khai giảng: 26 – 12 – 2017 (khi đủ 20 học viên đăng ký)
Ngày học : Thứ Ba – Thứ Năm
Giờ học: 08 giờ – 10 giờ
Học phí: 1.300.000đ (đóng 1 lần)/khóa/30 buổi học lý thuyết
Chú ý: Khi đăng ký, học viên nộp 1 tấm hình 2×3 để làm thẻ học viên.
Sau khi kết thúc lý thuyết học viên đăng ký thực hành
Học phí thực hành : 1.200.000/ 30 buổi
Dời lớp “Đào tạo nhân viên Xoa bóp bấm huyệt – Vật lý trị liệu khóa 07”
Phòng Đào tạo – Nghiên cứu khoa học – Chỉ đạo tuyến Viện Y Dược học dân tộc TP. Hồ Chí Minh thông báo chiêu sinh lớp “Đào tạo nhân viên Xoa bóp bấm huyệt – Vật lý trị liệu khóa 07”
– Dự kiến khai giảng: 08 giờ 00 ngày 02/12/2017.
– Thời gian học: 8 tuần.
Mẫu đơn và lịch học vui lòng xem bên dưới:
Lịch học Thực hành và Lý thuyết Lớp xoa bóp bấm huyệt khóa 07
Mau dang ky Lớp xoa bóp bấm huyệt khóa 07
Hội chứng trào ngược Dạ dày Thực quản (Phần 2: YHCT)
Y Học Cổ Truyền điều trị Hội chứng trào ngược dạ dày thực quản (tt)
1. Không dùng thuốc:
Tập Dưỡng sinh hay Yoga: Ổn định thần kinh bằng tập luyện dưỡng sinh kết hợp với thở sâu để cân bằng co bóp và thư giãn cơ của ống tiêu hoá.
Thực hành yoga góp phần điều trị hiệu quả nhiều loại bệnh trong đó có hội chứng trào ngược dạ dày – thực quản. Qua nghiên cứu của các tác giả: Dharmesh Kaswala, Shamik Shah, Avantika Mishra, Hardik Patel, Nishith Patel, Pravesh Sangwan, Ari Chodos, và Zamir Brelvi, đăng trong Int J Yoga. 2013 Jul-Dec; 6(2): 131–133.
Kết quả: phần lớn những người tham gia tập yoga đã kiểm soát được các triệu chứng do Gerd’s gây ra so với đơn thuần sử dụng thuốc ức chế bơm proton.
Châm cưú – day ấn huyệt: Huyệt thường dùng
Đản trung (CV-17), Trung quản (CV -12), Huyệt Nội quan (PC-6), Túc tam lý (ST-36), Tam âm giao (Sp. 6), Thái xung (Liv. 3).
Huyệt đặc hiệu:
Túc tam lý (St. 36): Trị tất cả chứng bệnh dạ dày ruột, buồn nôn, nôn, đầy bụng, chướng hơi, sôi bụng, táo bón, kích thích hệ miễn dịch, hội chứng tiền kinh nguyệt, trầm cảm, mất ngủ, căng thẳng). Trị chứng Gerd, đau thượng vị, khó tiêu, tiêu chảy, trong phụ khoa điều trị chứng u xơ, u nang, khinh nguyệt không đều , đau vùng trước tim, lo lắng, mất ngủ, căng thẳng.
Thái xung (LV 3 or Liver 3):Trị tiêu chảy, ợ chua, táo bón, buồn nôn, nôn, bệnh về mắt, đau đầu, chóng mặt, rối loạn kinh nguyệt, đau ngực, lo lắng, dễ kích thích, mất ngủ.
Túc tam lý (St. 36) St36
Thái xung (LV 3 or Liver 3) Lv3 acupressure point
Công tôn (Sp.4) Sp4 acupuncture point
Nội quan (P.6) PC 6
Huyệt Trung quản (central venter, CV 12) CV12 acupressure point
2. Sử dụng thuốc: Có 2 thể bệnh thường gặp theo YHCT
2. 1. Giảm lực co bóp cơ dạ dày (Vị khí trệ – Tỳ suy): thường bệnh lúc tăng, lúc giảm.
Hướng trị liệu: ổn định lực co bóp dạ dày, kích thích tiêu hoá (phép hành khí kiện tỳ):
Triệu chứng: bụng trên đầy tức, ợ hơi, ợ chua, ăn ít, buồn nôn, đại tiện phân nát hoặc lỏng, ăn uống thức ăn ấm nóng cảm gác dễ chịu hơn.
Thuốc: Trần bì, Hậu phác, Sa nhân, Mộc hương, Hương phụ…
Bài thuốc khác: Việt cúc hoàn: Thương truật, Hương phụ, Xuyên khung, Thần khúc, Sơn chi tử (sao)
2.2. Rối loạn co thắt cơ của ống tiêu hoá (dạ dày, môn vị và tâm vị = Can khí uất trệ):
Hướng trị liệu: điều hoà co thắt cơ dạ dày, môn vị và tâm vị (phép Sơ can, lý khí giải uất):
Triệu chứng: ngoài các triệu chứng ợ nóng, đắng hoặc chua miệng, hông sườn đau tức, khối u di động, kèm kinh nguyệt không đều, hoặc đau bụng kinh, dễ cáu gắt, thích thức ăn mát lạnh, không thích nóng
Thuốc: Sài hồ, Uất kim, Nghệ, Xuyên luyện tử, Thanh bì, Hoàng liên, Hoàng bá, Hoàng cầm…
Các bài thuốc: Tứ nghịch tán (Sài hồ, Chích thảo, Thược dược, Chỉ thực); Sài hồ sơ can tán (Sài hồ, Bạch thược, Chỉ sác, Chích thảo, Xuyên khung, Hương phụ); Tiêu giao tán (Sài hồ, Đương quy, Bạch thược, Bạch linh, Chích thảo).
3. Kết luận:
Để thành công trong kiểm soát bệnh trào ngược dạ dày – thực quản, cần thay đổi lối sống kết hợp phương pháp không dùng thuốc (tập dưỡng sinh, yoga, thiền định) và sử dụng thuốc. Đối với các thể nặng giai đoạn đầu cần phối hợp hợp lý Y học cổ truyền và Y học hiện đại cũng như tuân thủ theo hướng dẫn chữa trị của thầy thuốc.
Hội chứng trào ngược Dạ dày Thực quản (GERD)
Y Học Cổ Truyền điều trị Hội chứng trào ngược dạ dày thực quản
Gastroesophageal reflux disease (gerd)
Một bệnh lý rất phổ biến, bệnh thường kéo dài và dễ tái phát. Đây là vấn đề y tế toàn cầu, chữa trị đòi hỏi sự kiên trì và bệnh gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng sống.
1. Cơ chế bệnh sinh:
Mất hàng rào chống trào ngược thực quản,
Cơ chế chính là giãn cơ thắt dưới của thực quản (lower esophageal sphincter), mất đồng bộ giữa đóng – mở cơ thắt dưới thực và co bóp của dạ dày.
Trào ngược gây: viêm thực quản, loét, co dúm niêm mạc,…
2. Biểu hiện của bệnh:
Triệu chứng điển hình: Ợ nóng sau xương ức, thỉnh thoảng lan đến họng, cùng cảm giác chua trong miệng, đau ngực, khó nuốt, khó chịu vùng thượng vị,…
Triệu chứng không điển hình: gặp khoảng 40-60% người có dạng hen, 57-94% người bệnh than phiền về tai – mũi – họng (khàn tiếng, cảm gíac nghẹn ở cổ, nuốt không xuống và khạc không ra) và khoảng 43-75% bệnh nhân bị ho khan mạn tính. Có thể do hít lượng nhỏ chất có trong dịch dạ dày trào ngược.
3. Các triệu chứng khác:
Ợ hơi, nuốt khó hoặc đau khi nuốt,
Tăng tiết nước bọt đột ngột,
Cảm giác nghẹn, thức ăn khó xuống,
Viêm lợi, mòn men răng
Cảm giác bị kích thích trong miệng,
Khàn tiếng vào buổi sáng,
Chua miệng, hơi thở hôi.
4. Nguyên nhân:
Thói quen ăn uống: ăn vội vàng, món ăn khó tiêu hoá, nhịp sống hối hả, căng thẳng,
Yếu tố gia đình (di truyền),
Viêm dạ dày do Helicobacter pylori là một trong những nguyên nhân của Gerd,
Hơn ½ phụ nữ mang thai từng có chứng ợ nóng, do thai phát triển gây tăng áp lực trong bụng và thay đổi hormone gây nên triệu chứng này, hầu hết sẽ khỏi sau sinh.
5. Những yếu tố gây nặng Gerd’s
Lo âu, stress tâm thể,
Ăn nhiều trái cây họ cam – quit, Chocolate, coffee, nước uống có cồn,
Ớt, thức ăn dầu mỡ, chiên,
Tỏi, Hành, Tiêu, Cà chua, rượu bia, thuốc lá,
Thưà cân, mang thai,…
6. Chẩn đoán: dựa vào lâm sàng và cận lâm sàng:
Nội soi (Upper Endoscopy): quan sát được tình trạng viêm thực quản – dạ dày, thoát vị hoành, bệnh Barrett’s thực quản. Lưu ý có khoảng 40 – 60% người bị Gerd’s nhưng nội soi bình thường.
Đo điện đồ thực quản (thực quản đồ, esophagram),
Đo áp lực thực quản (esophageal manometry).
7. Biến chứng lâu dài của Gerd’s:
Viêm thực quản, bệnh ác tính
Hẹp thực quản (nghẹn, khó nuốt),
Viêm thực quản kéo dài có nguy cơ dẫn đến ung thư.
Hen phế quản, ho mạn tính, xơ phổi có thể thúc đẩy và thậm chí gây Gerd’s
7. Điều trị:
7.1. Thuốc Tân dược thường dùng:
Gaviscon (chất tạo bọt, Foaming)
Ức chế thụ thể H2 (Ranitidin)
Ức chế bơm proton (omeprazole, esomeprazole…)
Antacid, maalox,…
Kháng sinh khi có HP dương tính trong dạ dày.
7.2. Không dùng thuốc:
Bắt đầu chương trình kiểm soát stress: Yoga, Thái cực quyền, khí công, thư giãn và thở 4 thời.
Ăn uống hợp lý: không ăn quá no, chia nhiều bữa ăn nhỏ, ăn chậm nhai kỹ, ngồi sau ăn 20 phút.
Ngưng thuốc lá, rượu,
Giảm cân (nếu thừa cân)
Chia nhiều bữa nhỏ,
Tránh nằm ngay sau ăn.
(còn tiếp)
Tăng Cholesterol máu có ăn được trứng gà không?
Cholesterol không thể thiếu trong cơ thể vì mỗi tế bào đều cần có cholesterol để hoạt động và tồn tại. Mặc dù cholesterol rất có lợi, tuy nhiên nếu tăng quá nhiều trong máu sẽ ảnh hưởng xấu đến cơ thể, đặc biệt là loại cholesterol xấu.
Cholesterol được chia 2 loại khác nhau do chất vận chuyển có tên là Lipoprotein, đó là:
Cholesterol tỉ trọng thấp (LDL-c: Low-density lipoprotein cholesterol), còn gọi là cholesterol xấu vì sẽ bám vào thành mạch máu gây chứng xơ vữa động mạch.
Cholesterol tỉ trọng cao (HDL-c: High-density lipoprotein), còn gọi là cholesterol tốt làm nhiệm vụ thu gom cholesterol thừa trở lại gan nên chống xơ vữa động mạch.
Tăng cholesterol máu không duy nhất chỉ do ăn uống mà do nhiều yếu tố nguy cơ khác từ bên trong và ngoài cơ thể.
Yếu tố kiểm soát được:
Chế độ ăn không lành mạnh: nhiều mỡ bão hoà; các sản phẩm từ động vật và mỡ trans từ các loại bánh kẹo ngọt (bánh snack) thức ăn chiên hoặc nướng; nhiều thịt đỏ và chế phẩm sữa có bơ.
Béo phì: người có chỉ số BMI (body mass index) cao thường bị tăng cholesterol; người có vòng bụng lớn, nam trên 102 cm (40 inches) và nữ trên 89 cm (35 inches).
Thiếu tập thể dục: tập thể dục giúp tăng HDL-c trong khi thiếu tập thể dục gây tăng kích thước những phần tử tạo nên LDL-c nên gây tổn thương mạch máu.
Hút thuốc lá: khói thuốc lá làm tổn thương thành mạch máu tạo điều kiện cho mỡ lắng đọng vào thành mạch. Nicotine trong khói thuốc còn làm giảm lượng HDL-c.
Bệnh đái tháo đường: đường trong máu cao gây tổn thương lớp nội mạc mạch máu và góp phần làm tăng LDL-c và giảm HDL-c.
Do một số bệnh nội tiết, bệnh thận hư nhiễm mỡ…
Yếu tố không kiểm soát được:
Tuổi tác: tuổi càng cao có khuynh hướng dễ rối loạn các thành phần mỡ trong máu.
Di truyền: nhiều người trong gia đình cùng bị chứng tăng cholesterol máu.
Hậu quả của tăng Cholesterol:
Tăng cholesterol máu là một trong nhiều nguyên nhân gây vữa xơ động mạch và hậu quả là tai biến mạch máu não, bệnh tim do mạch vành, bệnh thận mạn tính, tắc nghẽn các mạch máu nuôi dưỡng nhiều cơ quan trọng yếu khác của cơ thể…Dù cholesterol cao kéo dài ảnh hưởng không tốt cho cơ thể, tuy nhiên cần tìm hiểu những yếu tố nguy cơ gây tăng cholesterol máu để kiểm soát trước khi quyết định sử dụng bất kỳ một loại thuốc hạ cholesterol máu.
Trứng gà có gây tăng cholesterol máu không?
Trước hết chúng ta cần biết trứng gà có chứa nhiều thành phần dinh dưỡng rất có lợi (hàm lượng các chất béo, đạm có thay đổi tuỳ theo giống gà và loại thức ăn của gà) cho cơ thể, nhìn chung trứng có chứa các chất sau:
Một quả trứng trung bình chỉ chứa khoảng 1,5g chất béo bão hoà và chất béo dạng trans (Trans fat có tên khác là trans fatty acid, axít béo chuyển hóa, hay axít béo đồng phân nhân tạo; hoặc tên dễ hiểu là dầu mỡ dùng đi dùng lại nhiều lần), khoảng 5g chất béo không bão hoà (thuộc nhóm omega-3) và chất béo dạng không trans.
11 loại vitamin (B12, B2, B6, C, Folic acid, D…) và chất khoáng (Fe, Cu, Mg, Ca, Kali…).
Không có chất xơ. Tham khảo thêm (*)
Tóm lại, trứng gia cầm nói chung và trứng gà nói riêng, tuy có chứa chất béo nhưng phần lớn là chất béo có lợi không gây tăng cholesterol máu và ngoài ra còn có nhiều chất dinh dưỡng khác như vitamin D, các acid amine thiết yếu rất tốt cho xương, não và mắt. Do đó, không có lý do gì phải kiêng trứng một cách tuyệt đối ngay khi có tăng một ít cholesterol máu. Người có cholesterol máu không cao có thể ăn trung bình 5 trứng/tuần, trong khi người có tăng cholesterol máu có thể ăn từ 3 trứng/tuần. Tham khảo thêm (**)
(Trứng gà bác còn gọi là trứng bác cà chua).
(**) Theo Hiệp hội tim mạch Mỹ (AHA) khuyến cáo: để có sức khoẻ tốt, mỗi người không nên ăn quá 300 mg cholesterol/ngày và tổng lượng chất béo đưa vào người, không quá 30% chất béo bão hòa, không quá 7% và trans fat không quá 1% tổng lượng calo /ngày. Theo khuyến cáo của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) chỉ nên tiêu thụ không hơn 300 mg cholesterol/ngày, duy trì tổng lượng chất béo từ 20-35% nhu cầu calo mỗi ngày, tối đa 10% axit béo bão hòa, còn trans-fat thì tiêu thụ càng ít càng tốt.