Trang chủ Blog Trang 134

Phương pháp dưỡng sinh đối với thời kỳ mãn kinh

Hội chứng mãn kinh là tập hợp một số triệu chứng và biểu hiện đặc biệt, xuất hiện trong giai đoạn mãn kinh ở phụ nữ, do chức năng của buồng trứng suy thoái, rối loạn chức năng hoạt động của tuyến yên , và hàm lượng hormone sinh dục nữ (estrogen) trong cơ thể hạ thấp gây nên.

Biểu hiện hội chứng mãn kinh

Hiện tượng mãn kinh, còn gọi là tắt kinh, hay là tuyệt kinh. Thường xảy ra trong giai đoạn khoảng từ 45-55 tuổi, có thể sớm hay muộn hơn, tùy thuộc vào đặc điểm thể chất và tình trạng sức khỏe. Một số phụ nữ mới khoảng 40 tuổi đã tắt kinh, đó là hiện tượng mãn kinh sớm, nhưng cũng có khá nhiều phụ nữ phải tới ngoài 55 mới bắt đầu tắt kinh, đó là trường hợp mãn kinh muộn. Còn thời kỳ mãn kinh được tính từ khi kinh nguyệt sắp tắt cho đến vài năm đầu, sau khi tắt kinh, thường kéo dài từ 3-5 năm. Đó là giai đoạn “quá độ”, khi người phụ nữ chuyển từ tuổi sinh sản sang tuổi già – không còn hành kinh và cũng hết khả năng sinh sản.

Trong giai đoạn này, thường xuất hiện những rối loạn về nội tiết, tim mạch, thần kinh, chuyển hóa… dẫn đến hàng loạt những chứng trạng như: bốc hỏa, mặt bừng đỏ, người lúc nóng lúc lạnh, vã mồ hôi, ớn lạnh, chóng mặt, hoa mắt, ù tai, dễ gắt gỏng, bồn chồn, lo hãi vô cớ, mất ngủ, tăng huyết áp, rối loạn kinh nguyệt, mất hứng thú trong quan hệ vợ chồng, són tiểu… gọi chung là hội chứng thời kỳ mãn kinh.

Tần suất xuất hiện, mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng trên, nói chung có quan hệ mật thiết tới tình trạng sức khỏe, đặc điểm thể chất và tâm lý, môi trường sống, cũng như tố chất văn hóa ở từng người. Tuy nhiên, không hiếm phụ nữ lại trải qua thời kỳ mãn kinh mà không thấy có triệu chứng gì khác thường.

Lý luận theo đông y

Hiện tượng mãn kinh ở phụ nữ đã được Đông y biết đến từ rất sớm. Trên 2000 năm trước, Nội kinh – bộ sách lý luận kinh điển của Đông y, đã đề cập tới quá trình biến đổi sinh lý và hiện tượng mãn kinh ở phụ nữ như sau: “… Con gái 7 tuổi thận khí bắt đầu thịnh, răng thay, tóc mọc dài; 14 tuổi (2×7=14), thiên quý phát dục thành thục, mạch nhâm thông suốt, mạch thái xung thịnh vượng, hàng tháng có kinh nguyệt… Tới 49 tuổi (7×7=49), mạch nhâm trống rỗng, mạch thái xung suy vi, thiên quý kiệt, kinh nguyệt tắt, hình thể lão hóa, hết khả năng sinh con…”. Đoạn văn trình bày một cách khái quát quá trình sinh trưởng, phát dục, thành thục và thoái hóa chức năng sinh sản ở nữ giới. Nhấn mạnh mối quan hệ giữa quá trình đó, với tạng thận, thiên quý và 2 mạch xung, nhâm.

Trong Đông y không có tên bệnh hội chứng thời kỳ mãn kinh, nhưng các chứng trạng của bệnh và cách chữa trị, đã được đề cập trong phạm vi của các chứng như: tuyệt kinh tiền hậu chư chứng, tâm quý, huyễn vựng, tạng táo, uất chứng…. Theo Đông y, nguyên nhân chủ yếu dẫn tới hội chứng mãn kinh là do thận khí suy kiệt, chức năng của 2 mạch xung và nhâm (gắn liền với chức năng sinh sản ở nữ giới) đã suy thoái, khiến âm – dương mất cân bằng, khí huyết không điều hòa, chức năng tạng phủ kinh lạc bị rối loạn gây nên.

Phương pháp Dưỡng Sinh đối với thời kỳ Mãn Kinh:

Bước vào giai đoạn mãn kinh, thận khí và chức năng của 2 mạch xung – nhâm (gắn liền với chức năng sinh sản ở nữ giới)  bắt đầu suy giảm, khiến âm – dương mất cân bằng, khí huyết không điều hòa, chức năng tạng phủ kinh lạc bị rối loạn.Theo đông y, các cơ quan nội tạng trong cơ thể đều có những “đường dẫn” ra bên ngoài để hấp thụ năng lượng từ môi trường, vũ trụ. Điểm chính mà các cơ quan nội tạng tiếp xúc với môi trường bên ngoài đó gọi là đại huyệt, các “đường dẫn” gọi là kinh mạch. Ví dụ: Thận có các huyệt chính là Dũng Tuyền, Thận Du… và đường dẫn là “Túc thiếu âm thận kinh”.

Do thận chủ về nạp khí (năng lượng) trong cơ thể, nên khi ta biết cách nạp được năng lượng sống cho thận là cơ sở giúp cơ thể phục hồi sinh lực. Vì thế việc luyện tập Dưỡng Sinh-Thiền – ứng dụng năng lượng chữa bệnh đã trở nên rất hữu ích.

Như trên đã nói, thận chủ về nạp khí (năng lượng) trong cơ thể, nên trong phương pháp Dưỡng Sinh – Thiền – ứng dụng năng lượng chữa bệnh, chúng ta sẽ biết cách nạp năng lượng cho thận bằng phương pháp dẫn năng lượng từ bên trong (điều chỉnh bên trong) và phương pháp nạp năng lượng từ bên ngoài (điều chỉnh bên ngoài). Khi một nguồn năng lượng sống mới, mạnh mẽ được nạp vào thận sẽ tác động đến từng tế bào, giúp cho thận được chuyển hóa, phục hồi chức năng một cách nhanh chóng. 

1

– Các bài tập “Dẫn hỏa quy nguyên” (đưa dương khí quay về thận) trong Dịch Cân Kinh cũng là một phương pháp bổ trợ tốt.

– Áp dụng các phương pháp thở đúng cách để tăng cường nội lực, tác động vào các huyệt mệnh môn, trường cường, thận du, dũng tuyền, vị trí thận, để tăng cường nguyên khí cho thận.

Theo Ngũ hành tương sinh thì Kim (phổi) sinh Thủy (thận), do vậy các phương pháp thở, tập luyện đúng sẽ có tác dụng rất tốt cho Phổi, làm khỏe phổi, từ đó giúp Thận nạp khí tốt hơn và  phục hồi.

– Đi bộ đúng cách, biết cách kết hợp phương pháp giáng khí, giúp cân bằng âm dương, điều hòa khí huyết cũng là một cách tốt.

– Một số động tác dưỡng sinh tham khảo :

1.Thở 4 Thời :

     Chuẩn bị: Nằm ngửa thẳng, kê một gối ở mông, cao khoảng 5-8 cm vừa sức, tay trái để trên bụng, tay phải để trên ngực; nhắm mắt, chú ý vào việc tập thở.

2

Động tác :

+ Thời 1: Hít vào tối đa, ngực nở bụng phình và căng (3”- 6”); (Hít ngực bụng nở).

+ Thời 2: Giữ hơi, mở thanh quản bằng cách cố gắng hít thêm, lồng ngực vẫn giữ  nguyên ở tình trạng nở tối đa, bụng vẫn phình căng cứng, đồng thời giơ một chân giao động qua lại 4 cái, rồi hạ chân. (3”-6”); (Giữ hơi hít thêm).

+ Thời 3: Thở ra thoải mái tự nhiên, để lồng ngực và bụng tự nhiên hạ xuống, không kềm không thúc. (3”-6”) (Thở ra không kềm, không thúc).

+ Thời 4: Thư giãn chân tay mềm giãn. (3”-6”); (Nghỉ nặng ấm thân) chuẩn bị trở lại thời một, hít vào.

Tác Dụng : Luyện tổng hợp hô hấp, tuần hoàn và thần kinh; chủ yếu là luyện sự cân bằng hai quá trình hưng phấn và ức chế.

Chỉ Định : Căng thẳng thần kinh, Hội chứng tâm thể; Các chứng ứ trệ ở tạng phủ.

2.Cúp lưng :

3

 Chuẩn bị : Hai chân ngay ra trước mặt, hai bàn tay để úp vào vùng lưng và xoa lên xoa xuống cho ấm cả vùng lưng. Có thể nắm tay lại xoa cho thật mạnh hơn, cho ấm đều. Xong để úp hai tay vào lưng, ở phía dưới đụng giường.
Ðộng tác : Cúp lưng thật mạnh, làm cho đầu và thân hạ xuống phía dưới, thở ra mạnh và hai bàn tay xoa vùng lưng từ dưới lên trên càng cao càng tốt; ngồi thẳng lên, hơi nghiêng ra sau, hít vô tối đa và đưa cả hai bàn tay xuống phía dưới vào vị trí cũ, đụng giường. Làm như thế 10 hơi thở, chà xát vùng lưng cho nóng ấm để chuẩn bị tập động tác khó hơn.
Tác dụng : Làm cho lưng nóng lên, dẻo dai hơn, trị bệnh đau lưng.

3.Rút lưng :

4 5

Chuẩn bị : Chân để thẳng trước mặt, hơi co lại cho 2 tay nắm được 2 bàn chân, ngón tay giữa bám vào huyệt Dũng tuyền dưới lòng bàn chân (điểm nối liền 1/3 trước với 2/3 sau lòng bàn chân, không kể ngón chân), ngón tay cái bấm vào huyệt Thái xung trên lưng bàn chân ở phía trên kẽ xương giữa bàn chân thứ nhất (ngón cái) và xương bàn chân thứ nhì.
Ðộng tác : Bắt đầu hít vô tối đa trong tư thế trên, chân hơi co; rồi duỗi chân ra cho ngay và thật mạnh, đồng thời thở ra triệt để. Làm như thế từ 3 – 5 hơi thở.
Tác dụng : Làm cho lưng giãn ra, khí huyết lưu thông, trị bệnh đau lưng. Tay bấm vào huyệt Dũng tuyền điều hoà huyết áp; bấm huyệt Thái xung điều hoà chức năng gan.
Ðộng tác bis : Nắm 2 bàn chân ở phía ngoài, ngón giữa và ngón cái vẫn bấm 2 huyệt trên. Làm động tác trên từ 3 – 5 hơi thở.

4.Ðộng tác hạ góc hay tam giác :

6

Chuẩn bị : Nằm ngửa, lót hai bàn tay úp xuống kề bên nhau để dưới mông, 2 chân chống lên, bàn chân gần đụng mông.
Ðộng tác : Hít vô tối đa; giữ hơi. Trong lúc ấy dao động đổ hai chân qua bên này rồi bên kia đụng giường, mỗi lần đổ 1 giây, cố gắng hít thêm vào, từ 2 – 6 lần : thở ra bằng cách co chân và ép chân trên bụng để đuổi hơi ra triệt để; xong để chân xuống. Làm như thế từ 1 – 3 hơi thở. Ðộng tác này gọi là động tác “Ba góc” vì đầu gối vẽ hình ba góc.
Tác dụng : Vận động tất cả tạng phủ  trong bụng, khí huyết được đẩy đi tới nơi hiểm hóc nhất của lá gan, lá lách, dạ dày, ruột, bộ sinh dục phụ nữ, vận động vùng thận và thắt lưng, giúp trị bệnh gan, lách, bệnh phụ nữ và các bệnh đau lưng.
Biến thể: 
Chuẩn bị : Ðể hai tay dưới mông như trên. Chống hai chân dang xa ra độ 40cm cho chân không vướng.
Ðộng tác : Hít vô một hơi tối đa; giữ hơi đồng thời dao động bằng cách hạ một đầu gối vào phía trong xuống sát giường và thay phiên nhau hạ đầu gối bên kia từ 2 – 6 lần; thở ra như trên. Làm như thế từ 1 – 3 hơi thở.
Tác dụng : Tác dụng như động tác 3 góc, và theo kinh nghiệm của học viên dưỡng sinh, lại có thêm tác dụng làm bớt đi tiểu đêm.

5.Nẩy bụng :

7 8

Chuẩn bị : Nằm ngửa, co hai chân sát mông, hai bàn chân úp vào nhau, đầu gối bật ra hai bên, hai tay xuôi trên giường.
Ðộng tác : Nẩy bụng và ưỡn cổ, làm cho cơ thể chỉ tựa trên xương chẩm, hai cùi chỏ và hai bàn chân. Mông hổng trên giường, hai đầu gối cố gắng sát giường, đồng thời hít vô tối đa; qua thời 2 giữ hơi và dao động nhờ sức mạnh của cùi chỏ và hông, từ 2 – 5 cái; thở ra ép bụng. Làm như thế từ 1 – 3 hơi thở.
Tác dụng : Vận động cơ ở phía sau thắt lưng, đùi, hông và bụng, xoa bóp nội tạng bụng. Trị bệnh đau lưng và bệnh phụ nữ.

6.Rắn hổ mang :

9

Chuẩn bị : Nằm sấp, hai bàn tay để hai bên, ngang thắt lưng ngón tay hướng ra ngoài.
Ðộng tác : Chống tay thẳng lên, ưỡn lưng, ưỡn đầu, ra phía sau tối đa, hít vô tối đa trong thời giữ hơi, dao động thân và đầu theo chiều trước sau từ 2 – 6 lần; thở ra triệt để và vặn mình, vẹo cổ qua 1 bên, cố gắng nhìn cho được gót chân bên kia. Hít vô tối đa có trở ngại; giữ hơi và dao động qua lại từ 2 – 6 lần, quay sang bên kia thở ra triệt để, cố gắng nhìn gót chân đối xứng. Làm động tác và thở như vậy từ 2 – 4 hơi thở.
Tác dụng : Vận động các cơ ở lưng, hông và cổ, làm cho khí huyết ở các vùng ấy chạy đến, thở có trở ngại đẩy khí huyết chạy đến nơi hiểm hóc nhất của gan, lách và phổi. Phổi mỗi bên nở ra tối đa, chống được xơ hoá và hiện tượng dính ở màng phổi sau khi bị viêm. 

7.Chào mặt trời :

10 12

Chuẩn bị : Ngồi một chân co dưới bụng, chân kia duỗi ra phía sau, hai tay chống xuống giường.
Ðộng tác : Ðưa hai tay lên trời, thân ưỡn ra sau tối đa, hít vô thuận chiều; trong lúc giữ hơi, dao động thân trên và đầu theo chiều trước sau từ 2 – 6 lần; hạ tay xuống chống giường, thở ra tối đa thuận chiều có ép bụng. Làm như vậy từ 1 – 4 hơi thở. Ðổi chân và tập như bên kia.
Tác dụng : Vận động các khớp xương sống và cơ phía sau thân làm cho khí huyết vận hành phía sau lưng, phòng và trị bệnh đau lưng.

8.Thư Giãn :

13

Chuẩn bị : Nằm che mắt, nơi yên tĩnh.

Động Tác :

Bước 1: Ức chế ngũ quan

Bước 2: Tự nhủ cho cơ mềm ra, giãn ra; từng nhóm cơ, từ trên mặt xuống dần đến ngón chân, một cách từ từ chắc chắn. Toàn thân nặng xuống ấm lên.

Bước 3: Theo dõi hơi thở 10 lần, thở thật êm, nhẹ, đều, nông.

Tác Dụng : Luyện quá trình ức chế của hệ thần kinh, luyện nghỉ ngơi chủ động.

Chỉ Định : Trạng thái căng thẳng thần kinh và cơ bắp; Các hội chứng tâm thể; Mất ngủ; Các bệnh ngoại cảm, nội thương cần nghỉ ngơi.

Chính từ những hiểu biết trên , tuy chị em phụ nữ có hội chứng mãn kinh giống nhau nhưng theo đông y lại biểu hiện chứng trạng khác nhau vì vậy phải có phương cách trị liệu khác nhau. Do đó chị em phụ nữ cần tìm đến các các chuyên gia y tế để được tư vấn cụ thể và đưa ra phương pháp điều trị phù hợp cho mình.

BS.CKI TRẦN TUẤN ANH

Hội thảo khoa học chủ đề: “Điều trị bệnh lý Gan, Mật theo y học cổ truyền”

Nhân ngày viêm gan thế giới – 28 tháng 7 – Tổ chức Y tế thế giới kêu gọi các nước trên thế giới phải hành động ngay càng sớm càng tốt để giảm tỷ lệ tử vong do viêm gan virus gây ra. Công việc cần làm là nâng cao kiến thức về viêm gan virus, tăng cường tiếp cận của người dân với các dịch vụ phòng và điều trị sớm. Sáng ngày 20/08/2016, Viện Y Dược Học Dân Tộc phối hợp với Hội Đông Y thành phố Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo khoa học chủ đề: “ Điều trị bệnh lý Gan, Mật theo y học cổ truyền”.

1
Ths. DS Hà Văn Hùng – Phó viện trưởng, Viện Y Dược Học Dân Tộc.

Hội nghị nhằm đẩy mạnh công tác khám bệnh, chữa bệnh bằng y học cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe người dân; với mục đích giới thiệu, quảng bá tác dụng điều trị theo Y học cổ truyền trong lĩnh vực điều trị bệnh lý Gan, Mật tại Viện trong những năm qua, đồng thời đánh giá hiện trạng công tác điều trị, nghiên cứu khoa học về bệnh lý Gan, Mật tại Việt Nam để từ đó nâng cao nhận thức của mọi người về chăm sóc sức khỏe bản thân.

4

Hội nghị vinh dự được đón tiếp: Ths.Ds Hà Văn Hùng – Phó viện trưởng, Viện Y Dược Học Dân Tộc, Bs.CKII Trần Văn Năm – Nguyên phó viện trưởng, Viện Y Dược Học Dân Tộc, Bs. CKII Lê Văn Hải – Trưởng khoa khám bệnh đa khoa, Viện Y Dược Học Dân Tộc, TS. Bs Ngô Anh Dũng– Chuyên gia Viện Y Dược Học Dân Tộc, Bs Lê Hùng – Chủ tịch Hội Đông Y TP.Hồ Chí Minh, Ths. Bs Nguyễn Hiền Minh – Giảng viên Đại học Y Dược TP.HCM, cố vấn Y Khoa Eco Pharma JSC, LY Nguyễn Công Đức – Nguyên giảng viên Đại học Y Dược TP.HCM, Bs.CKI Trần Vũ Lan Hương – Phụ trách khoa Dinh Dưỡng – Tiết Chế Viện Y Dược Học Dân Tộc cùng hơn 250 đại biểu là y bác sĩ, lương y của các bệnh viện Y Học Cổ Truyền của các tỉnh thành quận huyện TP.Hồ Chí Minh.

2
TS. BS Ngô Anh Dũng – Chuyên gia Viện, Viện Y Dược Học Dân Tộc.
3
LY. Nguyễn Công Đức – Nguyên giảng viên ĐH Y Dược TP.HCM
6
Ths. BS Nguyễn Hiền Minh – Giảng viên ĐH Y Dược TP.HCM, cố vấn Y Khoa Pharma JSC.
7
BS Lê Hùng – Chủ tịch hội Đông Y TP.HCM.
8
Bs. CKII Lê Văn Hải – Trưởng khoa khám bệnh đa khoa, Viện Y Dược Học Dân Tộc.
9
Bs.CKI Trần Vũ Lan Hương – Phụ trách khoa Dinh Dưỡng – Tiết Chế, Viện Y Dược Học Dân Tộc.

Tại Hội nghị được nghe những báo cáo xoay quanh những chuyên đề như: “Kiến thức Y học cổ truyền về Lý – Pháp – Phương – Dược của các chứng Hoàng đản, Hiếp Thống, Đởm trướng” (TS. Ngô Anh Dũng), Những bài thuốc Nam chữa Viêm gan (LY.Nguyễn Công Đức), Giới thiệu một số thành phẩm thuốc có tac dụng trong điều trị bệnh lý Gan, Mật (Công ty cổ phần Dược phẩm Eco), Châm cứu hỗ trợ bệnh Hoàng đản (BS.Lê Hùng), Cập nhật điều trị Viêm gan siêu vi B, C và vai trò của Y học cổ truyền trong điều trị Viêm gan siêu vi hiện nay (Bs. CKII Lê Văn Hải), Dinh Dưỡng trong bệnh lý Gan, Mật (Bs. CKI Trần Vũ Lan Hương). Trong suốt thời gian diễn ra Hội thảo, các đại biểu đã có nhiều ý kiến thảo luận rất sôi nổi và hào hứng. Nhiều kiến thức mới được giới thiệu, nhiều chuyên đề liên quan đến công tác điều trị bệnh Viêm gan trong bối cảnh thế giới có khoảng 400 triệu người nhiễm bệnh viêm gan B và C (WHO).

12 13

10

Thông qua hội thảo giúp cho những người làm công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho người dân có điều kiện kiện giao lưu, trao dồi y đức, bồi dưỡng, cập nhật và đào tạo liên tục trong chuyên môn ngành y học cổ truyền.

5

16

Bệnh Trĩ đã có cách điều trị hiệu quả

Ảnh minh họa.

Phương pháp điều trị bệnh trĩ bằng thủ thuật tiêm PG 60 có thể làm búi trĩ co teo lại. Thủ thuật này giúp giải quyết bệnh trĩ của bệnh nhân mà không cần phẫu thuật.

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Nếu bệnh trĩ không gây ra các biến chứng như chảy máu, tắc mạch, tạo cục máu đông, trĩ sa nghẹt, sưng đau, nhiễm trùng, lở lét…thì không cần điều trị. Chỉ cần can thiệp khi trĩ gây những rối loạn ảnh hưởng đến sinh hoạt và năng suất lao động của người bệnh.
Phương pháp điều trị trĩ bằng thủ thuật tiêm PG 60 là phương pháp tiêm dung dịch PG (dung dịch Phenol và Glycerine) theo nồng độ thích hợp vào búi trĩ, làm cho thể tích búi trĩ thu nhỏ và co teo. Phương pháp này không làm xơ chai niêm mạc trĩ giống như các phương pháp tiêm xơ trước đây. Mỗi lần tiêm chỉ mất khoảng 3 phút và bệnh nhân có thể nhanh chóng trở lại với công việc hằng ngày.
Thủ thuật tiêm PG60 điều trị bệnh trĩ được đánh giá là hiệu quả và được bác sĩ chỉ định cho các bệnh nhân bị trĩ nội. Cụ thể, thủ thuật tiêm PG 60 được chỉ định cho điều trị trĩ từ độ 1 – 3 và trĩ hỗn hợp độ 2,3 (Trĩ nội độ 2,3 kết hợp với trĩ ngoại). Nghĩa là có thể thực hiện tiêm PG 60 điều trị trĩ nội cho các tình trạng từ khi trĩ còn nằm hoàn toàn trong ống hậu môn, cho tới mức độ trĩ nội sa hẳn ra ngoài sau khi đại tiện và không tự co vào trong ống hậu môn được.
Tùy theo mức độ của bệnh trĩ mà bệnh nhân sẽ được tiêm thuốc với số lần tương ứng. Ví dụ: Trĩ độ 3 tiêm từ 10 – 15 lần, có thể tiêm cách ngày hoặc cách tuần, tùy theo điều kiện và tình trạng của bệnh nhân. Riêng với trĩ nội độ 4, tiêm PG 60 vẫn có thể có hiệu quả trong một số trường hợp, nhưng nếu tiêm khoảng 20 lần không tiến triển tốt thì nên cân nhắc phẫu thuật. Lưu ý, chống chỉ định tiêm PG 60 đối với trĩ ngoại.
Ưu điểm của phương pháp này là Hiệu quả – An toàn và ít tốn kém, giúp loại bỏ những búi trĩ mà không phải phẫu thuật cắt trĩ. Bệnh nhân cần đến cơ sở y tế có uy tín, kinh nghiệm và đúng chuyên ngành hậu môn trực tràng để được chẩn đoán chính xác, được tư vấn và lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp để tránh những biến chứng, di chứng đáng tiếc xảy ra như chảy máu, hẹp hậu môn, đại tiện mất tự chủ (do tổn thương cơ vòng….)

Ths.BS Nguyễn Tuấn Quyên
(Khoa Ngoại tổng hợp, Viện Y dược học dân tộc TPHCM)

Đánh giá của bệnh nhân từng điều trị bệnh “Hậu Môn Trực Tràng’ tại Viện

Viện Y Dược Học Dân Tộc thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị phụ trách đầu ngành khám bệnh, chữa bệnh bằng y, dược cổ truyền của 19 tỉnh, thành miền Nam (trong đó có thành phố Hồ Chí Minh) và 05 tỉnh Tây Nguyên.

Trong những năm qua, tất cả đội ngũ Y, Bác sĩ, cán bộ viên chức Viện luôn chú trọng trong công tác trao dồi chuyên môn lẫn y đức, xứng đáng với danh hiệu: “Lương y như từ mẫu , thầy thuốc như mẹ hiền”.

Phương pháp điều trị bệnh trĩ bằng Đông – Tây y kết hợp đã được Viện Y dược học dân tộc TP. Hồ Chí Minh chữa trị cả chục năm nay, mang lại cơ hội điều trị bệnh trĩ không phải phẫu thuật, giảm đau đớn cho các bệnh nhân, ít gây biến chứng. Với phương pháp sử dụng thuốc tiêm PG-60 (của Lương y Lê Văn Chánh, Viện Y dược học dân tộc TP. Hồ Chí Minh) trực tiếp vào búi trĩ làm teo, co nhỏ lại. Đồng thời kết hợp với các bài thuốc y học cổ truyền làm búi trĩ co lên, tăng cường bảo vệ thành mạch, kết hợp nhuận trường.

Người bệnh đến với Viện không chỉ được chữa bệnh mà còn được Bác sĩ ở Viện hướng dẫn tân tình cách chăm sóc sức khỏe, ăn uống khoa học, chế độ nghỉ ngơi, tập luyện thể dục…và ngăn ngừa bệnh là việc cần thiết và quan trọng hơn là để bệnh xảy ra rồi mới trị bệnh.

Viện trân trọng xin được trích nguyên văn lời tâm tình của bệnh nhân sau khi đến Viện điều trị:

Đn y dược học dân tộc tphcm.
Là bệnh viện nghe qua tên bệnh viện thì hình như lần đầu biết đến.
Tôi là bệnh nhân nguyễn khắc bình ngờh năm 1976 ở tỉnh tiền giang được bệnh viện tỉnh chuẩn bị rò hậu môn đông y gọi mạch lươn ,tôi có tìm hiểu thông tin bệnh này khó trị có người mổ đi mổ lại nhiều lần và được người quen giới thiệu phải mổ bệnh viện này mới khỏi bệnh, nghe qua bệnh viện lạ quá.. Khác với các tên bệnh viện lớn tphcm.
Và quyết định nghe người quen hướng dẫn đến: Viện Dược Học 273 Nguyễn Văn Trỗi Q.Phú Nhuận Tphcm.. Lần đầu đến đước hướng dẫn bắt số thứ tự… Và tôi được hướng dẫn vào phòng khám khoa trực tràng hậu môn p16.. Thấy mọi người chờ đợi rất đong nhìn ai cũng căng thẳng vì bệnh đau… Bênh ngoài bố trí một cô y tá nhìn cô này còn trẻ óm người hình như cô tên mai, quan sát cách tiếp bệnh nhân làm tôi ấn tượng có cách nhìn khác đi về bệnh viện này với các bệnh viện khác… Cô vui vẻ hướng dẫn tận tình không quạu quọ như các bệnh viện khác… Tôi cũng được cô hướng dẫn hết mực dù bệnh nhân rất đong….
Đến lượt tôi vào buồng khám gặp bác sĩ : Nguyễn Bình Phương Thảo.
Khám và chuẩn bệnh là rò phải nhập viện mổ và tư vấn rất tận tình tỷ mỷ từng chút làm tôi thêm tự tin hơn đối với bác sĩ nơi đây.

Ngày nhập viện là thứ 2 gặp bs thảo dẫn đến gặp bác sĩ : Bùi Nguyễn Y Châu bác khám lại… Ca mổ được xác định là đầu giờ tôi không ngờ lại nhanh như vậy.
Bác sĩ châu là người mổ cho tôi.
Ca mổ thành công khoảng 15phut chỉ gây tê mổ xong băng lại leo xuống đi bình thường, tôi cứ ngỡ phải gây mê như các bệnh viện tây y chứ… Mổ xong sức khỏe bình thường thật hay… Trong tôi ông bác sĩ châu này giỏi vừa mổ còn hỏi han nói chuyện với tôi…
Mổ xong về phòng nằm nghỉ một lúc bác châu chạy xuống hỏi thăm, trong phòng có rất nhiều bệnh nhân tâm sự : đã mổ rồi ở bệnh viện lớn tphcm tốn tiển rất nhiều mà không hết nay vào đây mổ lại…. Có những người gần xuất viện và tái khám lại khen tặng nói vào đây mổ rò và bệnh tỷ là đúng rồi ….. Bác sĩ đây giỏi và có tâm thương bệnh nhân lắm…
Thật vậy vì bệnh tôi là bệnh khó sau thời gian điều trị ở đây:
cảm nhận tình cảm bác sĩ và các y tá điều dưởng ở đây ai cũng có một tái tim nhân hậu thương yêu tận tâm với bệnh nhân……………..
Ngày ra viện tôi muốn cầm tay bác sĩ cũng như các y tá điều dưỡng ở đây như lời cám ơn …. Nhưng điều ấy đã đè nén cảm xúc in đậm trong tim tôi.
Tôi thành thật ghi nhận cảm ơn toàn thể y bác sĩ ..y tá điều dưởng…
Cá nhân:
chân thành cám ơn bác sĩ bs nguyễn bình phương thảo giúp đỡ.
Bác sĩ tài ba bùi nguyễn y châu.. Là bác sĩ vui tính bình vị dể gần gủi tận tụy có tâm có đức có tài…
Toàn thể điều dưởng y tá khoa ngoại :
cô mây, cô hoàn , sương, hằng… Còn mấy cô chưa biết tên…
Xin chúc tất cả mọi người nhiều sức khỏe…
Chúc bệnh viện càng ngày lớn mạnh thêm những nhân tài giỏi như các bác sĩ trên.
Tôi rất hài lòng về bệnh viện mặt dầu đang trong giai đoạn sửa chửa nhưng sạch sẽ thoáng…
Chi phí rất rẻ hơn các bệnh viện lớn rất nhiều.
Cách chửa bệnh chửa bệnh hiệu quả cao.
Đội ngũ y bác sĩ có tâm đức gần gủi xem bệnh nhân như người thân.

(Nguồn bài đánh giá trên google)

 

Điều trị kết hợp đông – tây y cho bệnh nhân liệt sau chấn thương

TTO – Các bác sĩ Bệnh viện Châm cứu T.Ư đang điều trị cho bệnh nhân liệt sau chấn thương, sau tai biến mạch máu não, đau cột sống bằng đông – tây y kết hợp. 

Các bác sĩ Bệnh viện Châm cứu T.Ư đang điều trị cho bệnh nhân liệt sau chấn thương, sau tai biến mạch máu não, đau cột sống bằng đông – tây y kết hợp.

Theo đó, sau điều trị ổn định bằng tây y tại bệnh viện chuyên khoa, các bác sĩ Bệnh viện Châm cứu T.Ư sẽ tiếp nhận bệnh nhân và điều trị bằng các biện pháp như xoa bóp, bấm huyệt làm tăng lưu thông khí huyết, châm cứu (điện châm, thủy châm), giúp giảm thời gian điều trị và tăng khả năng phục hồi.

Hai tuần trước, anh N.T.N. ở Nam Định đến Bệnh viện Châm cứu T.Ư trong tình trạng tiểu tiện không tự chủ, liệt hoàn toàn hai chân. Mới 33 tuổi và đang là trụ cột gia đình, việc anh N. bị liệt sau tai nạn giao thông khiến mọi người trong gia đình lo sợ.

Tuy nhiên sau hai tuần điều trị kết hợp bằng cả tây y và đông y như xoa bóp, bấm huyệt kết hợp với châm cứu/điện châm, thủy châm, đắp ngải cứu, xông hơi, tắm thuốc… anh N. đã kiểm soát được bài tiết, khi bác sĩ yêu cầu nhấc chân anh đã nhấc được cẳng chân trái lên khỏi mặt giường.

Mặc dù anh N. chưa thể đi lại được nhưng bác sĩ Nguyễn Duy Luật, trưởng khoa cột sống ít xâm lấn kết hợp đông – tây y, tỏ ra lạc quan về trường hợp bệnh của anh. Theo bác sĩ Luật, nếu tích cực rèn luyện và điều trị, anh N. có thể phục hồi được vận động.

Cạnh phòng bệnh của anh N., chúng tôi gặp bệnh nhân L.T.H. 28 tuổi bị di chứng không đặt nằm được hai bàn chân xuống đất khi bước đi, mỗi bước chân phải lết như chân vịt và cần có người dìu đỡ mới bước được.

Sau ba tuần được điều trị, cha anh H. vui vẻ cho biết anh đã đặt được bàn chân xuống đất theo kiểu bình thường, anh tự đi được những đoạn ngắn mà không cần người dìu.

Theo ông Nguyễn Bá Quang – giám đốc Bệnh viện Châm cứu T.Ư, trung bình mỗi tháng bệnh viện nhận điều trị cho khoảng 100 ca liệt các dạng như liệt nửa người, liệt hai chi dưới, liệt sau chấn thương, tai nạn và bệnh nhân thoái hóa cột sống, thoát vị đĩa đệm, co cơ… đến điều trị.

Trong đó, người bị liệt sau chấn thương và đau lưng – cổ, co cơ do ngồi nhiều là gặp nhiều nhất. Ông Quang cho biết phương pháp điều trị kết hợp giúp phục hồi tốt hơn khoảng 40% so với phương pháp điều trị riêng lẻ thông thường, thời gian điều trị rút ngắn 2-3 tuần/bệnh nhân.

Tuy nhiên chi phí điều trị cũng cao hơn khoảng 30% so với trường hợp bệnh nhân chỉ điều trị bằng các biện pháp riêng lẻ.

theo L.ANH / tuoitre.vn

Giảm đau, xót do nhiệt miệng nhanh chóng

Tình trạng sưng đỏ, đau xót trong miệng do nhiệt miệng là nỗi khốn khổ của nhiều người. Những mẹo vặt sau có thể giúp người bệnh giảm nhẹ và nhanh chóng triệu chứng khó chịu này.

Nhiệt miệng
Ảnh minh họa.

Ngậm nước trà tươi, trà đen đặc, quả sung, rau dấp cá, húng chanh (tần dày lá), vỏ xoài… Trong thành phần các dược thảo kể trên, có chứa chất Tanin – Chất chát có tính sát trùng và làm săn da, có tác dụng kháng khuẩn, kháng virus. Theo y học cổ truyền chúng có tác dụng trừ thấp nhiệt ở tỳ vị, thanh nhiệt độc, khử mùi hôi.

Bôi mật ong nguyên chất: bôi vào sang thương vết loét, 2- 3 lần/ ngày, liên tục 4-5 ngày. Đây là phương pháp hiệu quả rõ ràng và nhanh nhất với điều kiện áp dụng ngay trong giai đoạn rất sớm (khi còn ở giai đoạn mụn nước rộp hoặc vết loét chớm hình thành). Lúc này triệu chứng đau xót còn ít, nếu được bôi mật ong nguyên chất, triệu chứng đau sẽ giảm hẳn và không tăng thêm ở giai đoạn kế tiếp. Thậm chí có thể biến mất hoàn toàn hoặc chỉ còn xót nhẹ khi ăn uống, dù tiến trình vết loét vẫn diễn ra từ 5 đến 7 ngày.

Súc miệng với nước củ cải trắng: giã sống khoảng 200- 300g củ cải trắng, vắt lấy nước hòa thêm một ít nước lọc, súc miệng ngày 3 lần.

Bôi nước cốt rau ngót với mật ong:  Lá rau ngót rửa sạch, giã nát để lấy nước cốt và hòa với ít mật ong. Dùng bông thấm thuốc bôi vào chỗ sưng đau, lở loét. Ngày bôi 2 – 3 lần. Theo Y học cổ truyền, lá và rễ rau ngót đều có tác dụng mát huyết, hoạt huyết, giải độc. Do vậy, phương pháp này thường áp dụng trong trường hợp viêm lở nặng niêm mạc miệng lưỡi, đau nhức nhiều, người bệnh có thể kèm sốt hoặc nổi hạch vùng lân cận.

Bôi nước cốt khế tươi : Khế giã nát, đổ ngập nước, đung sôi một lúc, chờ khi nguội thì ngậm và nuốt dần, ngậm nhiều lần trong ngày. Khế là trái có vị chua, tính mát, giúp sinh tân dịch, thanh nhiệt từ đó “làm mát” cơ thể.

Dù điều trị bằng phương pháp nào, trong quá trình bệnh, người bệnh cũng nên uống nuốc đầy đủ ít nhất 2 lit/ngày, ăn kèm nhiều “đồ mát” như rau quả tươi,…để tăng tác dụng thanh nhiệt.

ThS. BS CK1. Trần Minh Quang – Viện Y dược học dân tộc TP.HCM
(Nguồn Báo Khoa học & Đời sống)
 

Tác dụng của cây Lá đắng (lá mật gấu)

Hiện phong trào sử dụng lá cây “Mật gấu” làm thuốc rất phổ biến. Thực chất đây là cây Lá đắng (khi nhai lá có cảm giác đắng nhưng sau đó lại có vị ngọt trong miệng) ở dạng ăn như rau hoặc nấu nước uống. Cây lá đắng (bitter leaf) có tên khoa học là: Vernonia amygdalina Del. hoặc Gymnanthemum amygdalinum thuộc họ Cúc (Asteraceae). Cây này được sử dụng từ rất lâu trong y học dân gian ở một số nước Châu Phi (Nigeria, Cameroon, Zimbawe) và Châu Á trong đó hiện phổ biến ở các Nước Đông Nam Á.

Tại Tp. HCM, người dân quen gọi cây Lá đắng với các tên: cây Mật gấu, cây Cơm kìa, cây Kim thất tai. Nhưng thực tế, 3 cây kể trên là tên của ba loại cây rất khác nhau về thực vật, thành phần hoá học cũng như tác dụng trị bệnh.
Trong bài viết này chỉ giới thiệu cây Lá đắng (vì hiện được trồng phổ biến và nhiều người sử dụng) về kết quả của các nghiên cứu từ nước ngoài về thành phần hoá học, tác dụng, cách dùng trong trị bệnh cũng như những lưu ý khi sử dụng trong hỗ trợ chữa trị một số bệnh thường gặp.
1. Thành phần hoá học:
Vị đắng của lá do những chất alkaloids, saponin, tannin, glycoside. Cây chứa các hợp chất có tác dụng sinh học khác như: terpene, steroid, coumarin, flavonoid, acid phenolic, lignan, xanthone, anthraquinone, edotide and sesquiterpene (có tác dụng kháng ung thư). Ngoài ra lá còn chứa các chất khoáng: magnesium, chromium, manganese, selenium, sắt, đồng, kẽm, Vitamin A, E, C, B1,B2. protein thô, chất xơ, chất béo, tro, carbohydrate, các acid amin quan trọng: Leucine, Isoleucine, Lysine, Methionine, Phenyl alanine, Threonine, Valine, Histidine, Tyrosine.
2. Tác dụng dược học:
Những hợp chất trong Lá đắng có tác dụng hỗ trợ điều trị các bệnh do quá trình viêm mạn tính, lão hoá, bệnh nhiễm giun sán, động vật nguyên sinh (protozoan) và vi khuẩn.
Theo công bố trên Quyển Y – Sinh học thực nghiệm tháng 2 năm 2004 (Experimental Biology and Medicine of February 2004 Edition) cho thấy lá Đắng có tác dụng hạ thấp tỉ lệ nguy cơ bị ung thư vú.
Lá Đắng dùng nấu dạng canh rau hay xay nhuyễn lấy nước uống như dạng nước bổ dưỡng trong nhiều dạng bệnh lý khác nhau. Nhiều thầy thuốc ở Châu Phi khuyên người dân dùng trị bệnh đường tiêu hoá, đái tháo đường, chán ăn, kiết lỵ và các chứng rối loạn tiêu hoá.
Các Polyphenol có tính kháng viêm và anti – oxidant, thải độc, bảo vệ thận, gan, hỗ trợ điều trị một số bệnh ngoài da. Giảm đường huyết, bao vệ tim mạch do giúp ổn định lipid máu.
3. Độc tính:
Sau 6 tuần cho động vật uống dịch chiết lá Đắng với nước, cho thấy không có sự khác biệt giữa động vật được uống và không uống nước lá Đắng về:
Mô học của tim, gan, thận và ruột khi sinh thiết,
Trọng lượng cơ thể,
Số lượng tế bào máu: hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu.
Kết quả này cho thấy dịch chiết lá cây Lá Đắng chưa ghi nhận độc tính trên thực nghiệm, ngay cả khi uống kéo dài.
4. Cây lá đắng dùng trị bệnh gì?
4.1. Dựa trên tác dụng dược học và kinh nghiệm sử dụng trong y học dân gian của các nước. Cây Lá đắng hiện được sử dụng như một chất chống oxy hoá, hỗ trợ điều trị một số loại mạn tính như sau:
Đái tháo đường type 2,
Rối loạn lipid máu,
Tăng huyết áp,
Một số bệnh đường tiêu hoá: viêm đại tràng, rối loạn tiêu hoá…
4.2. Các nhà nghiên cứu cho biết y học dân gian ở nhiều quốc gia đã dùng cây Lá đắng chữa bệnh:
Ấn Độ: dùng lá chữa tiểu đường, dùng cành, rễ hỗ trợ điều trị HIV, hạ sốt, giảm ho, phát ban, cảm cúm, viêm vú.
Congo: dùng lá và vỏ rễ chữa kiết lỵ, viêm dạ dày, ruột, sốt rét, viêm gan, nhiễm giun.
Nam Phi: dùng rễ chữa sán máng (huyết hấp trùng), hiếm muộn, rối loạn kinh nguyệt.
Ở khu vực Tây Phi: dùng lá làm trà lợi tiểu, chữa táo bón, nhiễm trùng da, đái đường, bệnh chuyển hóa liên quan đến gan…
5. Lời khuyên:
Qua quan sát bước đầu ghi nhận nhiều người bệnh bị Tăng huyết áp, Đái tháo đường, rối loạn tiêu hoá,…có sử dụng kèm nấu nước Lá Đắng nhận thấy ổn định đường huyết lúc đói (kết hợp ăn kiêng, sử dụng thuốc hạ đường liều thấp), ổn định chỉ số đo huyết áp, đặc biệt ổn định tình trạng rối loạn đại tiện (tiêu phân nát, đại tiện nhiều lần trong ngày), tăng cảm giác ngon miệng…
Phản ứng ngoại ý: chưa ghi nhận những phản ứng ngoại đáng kể. Tuy nhiên khi sử dụng liều cao (trên 15g) vài người bị táo bón, huyết áp giảm, cảm giác ngọt ở miệng kéo dài.
Mặc dù theo các tài liệu nước ngoài cho thấy Lá Đắng an toàn khi uống. Tuy nhiên, hiện trong nước chưa có công trình nghiên cứu thực nghiệm cũng như lâm sàng được công bố. Nên rất cần được theo dõi và đánh giá thêm.
Trong quá trình sử dụng cần tuân thủ sự kiểm tra của thầy thuốc cũng như nên định kỳ thực hiện các xét nghiệm đánh giá tình trạng bệnh cũng như chức năng gan, thận…
Sử dụng bắt đầu liều thấp, không ngưng đột ngột các thuốc đang điều trị đặc hiệu (thuốc hạ áp, hạ đường…) và theo dõi các biểu hiện bất thường của cơ thể. Liều khuyên dùng khoảng 10g lá tươi (khoảng 3 – 5 lá) và 5 – 8g lá dạng khô.
theo BS Trần Văn Năm

Lịch tập dưỡng sinh – Viện Y Dược Học Dân Tộc

Dưỡng sinh là một phương pháp của y học cổ truyền đã được trải nghiệm qua hàng trăm năm, nhằm giúp cho con người phục hồi, tăng cường sức khỏe chống lại bệnh tật. Về phương pháp dưỡng sinh, cố Bộ trưởng Bộ Y tế, Giáo sư Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng đã dày công nghiên cứu và đã đưa ra “Phương pháp dưỡng sinh Nguyễn Văn Hưởng” mang tính khoa học cao, dễ hiểu, dễ áp dụng. 

Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng luôn nhắc nhở đồng nghiệp và người bệnh phải phát huy khả năng tự điều chỉnh và phục hồi của cơ thể bằng tập luyện (vì cơ thể là nhà máy sản thuốc hiện đại nhất), không quá lệ thuộc thuốc đưa từ ngoài vào. Nếu cần đến thuốc sẽ ưu tiên sử dụng thuốc từ thiên nhiên (trừ những trường hợp khẩn cấp, cấp cứu) đặc biệt là Thuốc Nam (thuốc mọc hoặc trồng ở Việt Nam).

Hơn 40 năm qua, Viện Y Dược Học Dân Tộc Tiếp tục ứng dụng kết quả điều trị và nghiên cứu khoa học:

– Ứng dụng PPDS lâm sàng: điều trị bệnh Tăng huyết áp, Hen phế quản, Rối loạn lipid máu, Thoái hoá khớp, Rối loạn tiêu hoá, Thoái hoá cột sống, …
– Thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học: Khảo sát điện não khi thực hành thư giãn, Thay đổi các chỉ số hô hấp khi tập thở 4 thời; Khảo sát áp suất ổ bụng trong động tác phình thót bụng; Dưỡng sinh trị tiểu không kiểm soát, sa sinh dục; Cải thiện hồng cầu và dung tích hô hấp trên người bệnh ung thư; Động tác dưỡng sinh hỗ trợ điều trị trĩ…
– Giãng dạy PPDS được trong trường trung cấp và đại học Y khoa,
– Viết thành tài liệu: Những bài thuốc Nam trị bệnh hiệu quả,
– Bào chế được bài thuốc Toa căn bản ở dạng thích hợp,  Bài thuốc Toa căn bản có trong Phác đồ điều trị bệnh Sốt xuất huyết Dengue bằng YDCT của Bộ y tế.  (Nguồn Bs.Trần văn Năm, Phó Viện trưởng, Viện Y Dược Học Dân Tộc).
Từ đó đến nay, tập luyện được xem là một biện pháp không thể thiếu trong liệu trình điều trị tất cả các loại bệnh, nhất là các bệnh mạn tính không lây
 lịch tập dưỡng sinh tại Viện Y Dược Học Dân Tộc:
 

Thư cảm ơn của bệnh nhân Trần Thị Thu Nga

Viện Y Dược Học Dân Tộc thành phố Hồ Chí Minh
Chăm sóc tận tụy – Điều trị tận tâm

Ngày 22/07/2016, bà Trần Thị Thu Nga, bệnh nhân phòng 322, của khoa       Nội Cơ xương khớp, sau khi đã điều trị hết bệnh, xuất viện, bà đã gửi thư khen về sự phục vụ ân cần chu đáo, nhỏ nhẹ, vui vẻ của nhân viên y tế Viện Y dược học dân tộc, cụ thể là Bác sĩ Lê Đức Trí và điều dưỡng Nguyễn Thy Ngọc với nội dung bức thư như sau:

THƯ CẢM ƠN

Kính gửi: Ban Giám đốc Viện Y Dược Học Dân Tộc

Tôi: Trần Thị Thu Nga là bệnh nhân phòng 322 – Khoa Nội Cơ Xương Khớp. Tôi vào viện ngày 22-6-2016 với chẩn đoán: Thần Kinh Tọa – bên phải.

Vào viện được Bác sĩ: Lê Đức Trí và Điều dưỡng: Nguyễn Thy Ngọc đã tận tâm điều trị cộng với các điều kiện cơ sở y tế của Viện (Khoa xoa bóp) , nay đã được khỏi bệnh Thần Kinh Tọa mà còn chữa cả bệnh đau bao tử, chứng đau đầu mất ngủ.

Hôm nay được xuất viện, không có gì hơn là gửi lời chân thành cảm ơn tinh thần phục vụ cứu người, sự ân cần chu đáo, nhỏ nhẹ vui vẻ với bệnh nhân  của tập thể Y – Bác sĩ của Viện.

Thành thật cảm ơn
TP.HCM, ngày 27 – 7 – 2016

 

Trần Thị Thu Nga

 

Với những lời cảm ơn rất chân thành trên, đó là động lực rất to lớn, để đội ngũ y, bác sĩ, điều dưỡng của Viện Y dược học dân tộc tiếp tục phát huy chuyên môn, điều trị khỏi bệnh cho bệnh nhân, người bệnh sẽ rất an tâm khi đến Viện Y dược học dân tộc nằm viện và chữa bệnh.

Cách phòng ngừa bệnh Trĩ

Một ngày nào đó, bỗng nhiên bạn cảm thấy xốn khi ngồi làm việc hoặc cảm thấy rát hay ra chút máu khi đi tiêu, thậm chí thấy một cục lồi sa ra ở cửa hậu… Đó có thể là những dấu hiệu ban đầu của một căn bệnh khó nói – bệnh trĩ.
Căn bệnh này tuy có ảnh hưởng tới cuộc sống nhưng không nặng nề nên mọi người thường bỏ qua và còn vì lý do bệnh ở vùng kín đáo nên thường ngại ngùng nhất là phụ nữ. Thật sự là bạn khó tâm sự với ai và thường là tự đến một nhà thuốc nào đó mua một vài loại thuốc sử dụng để tự trấn an mình. Nhưng giờ thì bạn sẽ thật sự an tâm khi đọc bài viết này.

1. Bệnh trĩ là gì?
Là bệnh rất phổ biến, chiếm tỉ lệ khoảng 50-60% các bệnh lý vùng hậu môn trực tràng (trĩ, nứt kẽ hậu môn, rò (mạch lươn), sa trực tràng…). Căn nguyên là do dãn quá mức các đám rối tĩnh mạch trĩ. Vì thế nó không lây như một số người lầm tưởng.
Có 2 triệu chứng chính đưa chúng ta đi khám bệnh là chảy máu và sa búi trĩ.
Chảy máu là triệu chứng có sớm nhất và thường gặp nhất (ra máu dính giấy, chảy thành giọt hay thành tia..). Và tâm lý chung là mọi người thường sợ hãi khi thấy triệu chứng này!
Sa búi trĩ  thường xảy ra muộn hơn sau một thời gian đi cầu có chảy máu. Sau mỗi khi đại tiện thấy có khối nhỏ lồi ra ở hậu môn, lúc đầu nó tự tụt vào được, về sau càng to dần phải dùng tay nhét vào.
Ngoài 2 triệu chứng chính trên, có thể có kèm theo các triệu chứng khác như đau rát khi đi cầu, ngứa, chảy dịch quanh lỗ hậu môn… làm cho ta thiếu tự tin trong giao tiếp.
2. Yếu tố thuận lợi gây bệnh trĩ?
Các yếu tố sau đây được coi như là những điều kiện thuận lợi phát sinh bệnh :
– Rối loạn đi cầu : táo bón kinh niên hoặc đi cầu nhiều lần trong ngày,  khi đi cầu phải rặn nhiều làm tăng áp lực trong lòng ống hậu môn, kích thích niêm mạc hậu môn, lâu ngày làm các búi trĩ dãn to, sung huyết.
– Tăng áp lực ổ bụng : người lao động nặng như khuân vác.., thai phụ… làm tăng áp lực trong ổ bụng, dễ dàng mắc bệnh.
– Tư thế đứng: áp lực tĩnh mạch trĩ tăng cao hơn khi ở tư thế đứng. Vì vậy, bệnh thường gặp ở người phải đứng lâu, ngồi nhiều, ít đi lại như : nhân viên văn phòng, thợ may, tài xế…
– Một số bệnh lý gây bệnh thứ phát : như viêm phế quản mạn, dãn phế quản, viêm đại tràng mạn, ung thư trực tràng, u bướu vùng tiểu khung…

3. Điều trị như thế nào ?
Nếu bệnh trĩ không gây ra các biến chứng như : chảy máu, tắc mạch tạo cục máu đông, trĩ sa nghẹt sưng đau, nhiễm trùng lở loét… thì không cần điều trị. Chỉ điều trị khi trĩ gây những rối loạn ảnh hưởng đến sinh hoạt và năng suất lao động của người bệnh. Tuy nhiên điều trị ở giai đoạn sớm sẽ tránh cho bạn những biến chứng phiền toái về sau.
Bạn cần đến những cơ sở y tế có uy tín, kinh nghiệm và đúng chuyên ngành hậu môn trực tràng để được chẩn đoán chính xác và lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp để tránh những biến chứng, di chứng đáng tiếc xảy ra như: chảy máu, hẹp hậu môn, đại tiện mất tự chủ (do tổn thương cơ vòng)…
Phương pháp điều trị hiện nay phân thành 3 nhóm:
1. Không can thiệp : thường dùng một số thuốc trợ tĩnh mạch để giải quyết triệu chứng là chính, kết hợp chế độ ăn uống, tập luyện thể dục, dưỡng sinh…
2. Thủ thuật : tiêm xơ, thắt vòng cao su, quang đông hồng ngoại (ít sử dụng).
3. Phẫu thuật : khoảng 10% chỉ định điều trị (dao điện, laser, khâu treo, Longo…) với chi phí khá cao.

Chúng tôi xin giới thiệu với các bạn một phương pháp điều trị
An toàn – Hiệu quả cao – Ít tốn kém và không ảnh hưởng nhiều đến công việc.
Đó là Phương pháp điều trị bệnh trĩ bằng thủ thuật tiêm PG60 đang thực hiện tại Khoa Ngoại Tổng hợp Viện Y Dược học dân tộc TP.HCM trong hơn 40 năm qua và phổ biến rộng rãi ở các tỉnh thành phía Nam.

Người thầy thuốc  sẽ tiếp nhận nỗi lòng khó nói của bạn một cách  nhẹ nhàng, tế nhị. Sau khi trao đổi tình trạng bệnh, bạn sẽ nằm nghiêng phải trên bàn khám một cách kín đáo. Bác sĩ và cộng sự của mình sẽ bộc lộ và tiêm một dung dịch đặc biệt vào các búi trĩ sa dãn. Bạn sẽ chỉ thoáng có cảm giác đau và một chút khó chịu (có thể có) vài giờ sau khi tiêm. Mất khoảng 3 phút thế là xong và bạn vẫn có thể tiếp tục công việc của mình một cách bình thường. Tùy thuộc vào mức độ bệnh lý và khả năng đáp ứng, một liệu trình điều trị sẽ kéo dài 3 – 15 lần, mỗi tuần từ 1 – 3 lần. Búi trĩ sẽ dần dần co teo và biến mất. Chi phí cho một đợt điều trị thật sự phù hợp với điều kiện kinh tế của đa số mọi người.
Bạn sẽ có một cảm giác mới lạ thật sự thoải mái sau khi điều trị ở đây. Hãy đến và cảm nhận nhé!
 
4. Phòng bệnh và phòng ngừa tái phát một cách đơn giản là ngăn chặn các yếu tố thuận lợi phát sinh bệnh bằng cách :
– Tập thói quen đi cầu đều đặn hàng ngày.
– Điều chỉnh thói quen ăn uống: hạn chế các chất kích thích như rượu, trà, cà phê…, các thức ăn nhiều gia vị như ớt, tiêu…
– Uống nước đầy đủ (1,5 – 2 lít/ngày)
– Ăn nhiều chất xơ từ rau củ, nước ép, trái cây tươi.
– Nên tập thể dục, dưỡng sinh và chơi các môn thể thao nhẹ như bơi lội, đi bộ…
Bệnh trĩ tuy không nguy hiểm nhưng nếu không biết quan tâm phòng ngừa, chữa trị sớm và đúng cách, có thể gặp nhiều biến chứng và hậu quả xấu, gây tổn hại đến sức khỏe và cuộc sống hạnh phúc trong gia đình. Và bây giờ bạn đã có thể trút bỏ nỗi niềm riêng của mình một cách nhẹ nhàng rồi đó!

Ths.Bs. Nguyễn Tuấn Quyên

Đơn vị liên kết

thoi gian lam viec







r>

BÀI MỚI