Trang chủ Blog Trang 135

Điều trị kết hợp đông – tây y cho bệnh nhân liệt sau chấn thương

TTO – Các bác sĩ Bệnh viện Châm cứu T.Ư đang điều trị cho bệnh nhân liệt sau chấn thương, sau tai biến mạch máu não, đau cột sống bằng đông – tây y kết hợp. 

Các bác sĩ Bệnh viện Châm cứu T.Ư đang điều trị cho bệnh nhân liệt sau chấn thương, sau tai biến mạch máu não, đau cột sống bằng đông – tây y kết hợp.

Theo đó, sau điều trị ổn định bằng tây y tại bệnh viện chuyên khoa, các bác sĩ Bệnh viện Châm cứu T.Ư sẽ tiếp nhận bệnh nhân và điều trị bằng các biện pháp như xoa bóp, bấm huyệt làm tăng lưu thông khí huyết, châm cứu (điện châm, thủy châm), giúp giảm thời gian điều trị và tăng khả năng phục hồi.

Hai tuần trước, anh N.T.N. ở Nam Định đến Bệnh viện Châm cứu T.Ư trong tình trạng tiểu tiện không tự chủ, liệt hoàn toàn hai chân. Mới 33 tuổi và đang là trụ cột gia đình, việc anh N. bị liệt sau tai nạn giao thông khiến mọi người trong gia đình lo sợ.

Tuy nhiên sau hai tuần điều trị kết hợp bằng cả tây y và đông y như xoa bóp, bấm huyệt kết hợp với châm cứu/điện châm, thủy châm, đắp ngải cứu, xông hơi, tắm thuốc… anh N. đã kiểm soát được bài tiết, khi bác sĩ yêu cầu nhấc chân anh đã nhấc được cẳng chân trái lên khỏi mặt giường.

Mặc dù anh N. chưa thể đi lại được nhưng bác sĩ Nguyễn Duy Luật, trưởng khoa cột sống ít xâm lấn kết hợp đông – tây y, tỏ ra lạc quan về trường hợp bệnh của anh. Theo bác sĩ Luật, nếu tích cực rèn luyện và điều trị, anh N. có thể phục hồi được vận động.

Cạnh phòng bệnh của anh N., chúng tôi gặp bệnh nhân L.T.H. 28 tuổi bị di chứng không đặt nằm được hai bàn chân xuống đất khi bước đi, mỗi bước chân phải lết như chân vịt và cần có người dìu đỡ mới bước được.

Sau ba tuần được điều trị, cha anh H. vui vẻ cho biết anh đã đặt được bàn chân xuống đất theo kiểu bình thường, anh tự đi được những đoạn ngắn mà không cần người dìu.

Theo ông Nguyễn Bá Quang – giám đốc Bệnh viện Châm cứu T.Ư, trung bình mỗi tháng bệnh viện nhận điều trị cho khoảng 100 ca liệt các dạng như liệt nửa người, liệt hai chi dưới, liệt sau chấn thương, tai nạn và bệnh nhân thoái hóa cột sống, thoát vị đĩa đệm, co cơ… đến điều trị.

Trong đó, người bị liệt sau chấn thương và đau lưng – cổ, co cơ do ngồi nhiều là gặp nhiều nhất. Ông Quang cho biết phương pháp điều trị kết hợp giúp phục hồi tốt hơn khoảng 40% so với phương pháp điều trị riêng lẻ thông thường, thời gian điều trị rút ngắn 2-3 tuần/bệnh nhân.

Tuy nhiên chi phí điều trị cũng cao hơn khoảng 30% so với trường hợp bệnh nhân chỉ điều trị bằng các biện pháp riêng lẻ.

theo L.ANH / tuoitre.vn

Giảm đau, xót do nhiệt miệng nhanh chóng

Tình trạng sưng đỏ, đau xót trong miệng do nhiệt miệng là nỗi khốn khổ của nhiều người. Những mẹo vặt sau có thể giúp người bệnh giảm nhẹ và nhanh chóng triệu chứng khó chịu này.

Nhiệt miệng
Ảnh minh họa.

Ngậm nước trà tươi, trà đen đặc, quả sung, rau dấp cá, húng chanh (tần dày lá), vỏ xoài… Trong thành phần các dược thảo kể trên, có chứa chất Tanin – Chất chát có tính sát trùng và làm săn da, có tác dụng kháng khuẩn, kháng virus. Theo y học cổ truyền chúng có tác dụng trừ thấp nhiệt ở tỳ vị, thanh nhiệt độc, khử mùi hôi.

Bôi mật ong nguyên chất: bôi vào sang thương vết loét, 2- 3 lần/ ngày, liên tục 4-5 ngày. Đây là phương pháp hiệu quả rõ ràng và nhanh nhất với điều kiện áp dụng ngay trong giai đoạn rất sớm (khi còn ở giai đoạn mụn nước rộp hoặc vết loét chớm hình thành). Lúc này triệu chứng đau xót còn ít, nếu được bôi mật ong nguyên chất, triệu chứng đau sẽ giảm hẳn và không tăng thêm ở giai đoạn kế tiếp. Thậm chí có thể biến mất hoàn toàn hoặc chỉ còn xót nhẹ khi ăn uống, dù tiến trình vết loét vẫn diễn ra từ 5 đến 7 ngày.

Súc miệng với nước củ cải trắng: giã sống khoảng 200- 300g củ cải trắng, vắt lấy nước hòa thêm một ít nước lọc, súc miệng ngày 3 lần.

Bôi nước cốt rau ngót với mật ong:  Lá rau ngót rửa sạch, giã nát để lấy nước cốt và hòa với ít mật ong. Dùng bông thấm thuốc bôi vào chỗ sưng đau, lở loét. Ngày bôi 2 – 3 lần. Theo Y học cổ truyền, lá và rễ rau ngót đều có tác dụng mát huyết, hoạt huyết, giải độc. Do vậy, phương pháp này thường áp dụng trong trường hợp viêm lở nặng niêm mạc miệng lưỡi, đau nhức nhiều, người bệnh có thể kèm sốt hoặc nổi hạch vùng lân cận.

Bôi nước cốt khế tươi : Khế giã nát, đổ ngập nước, đung sôi một lúc, chờ khi nguội thì ngậm và nuốt dần, ngậm nhiều lần trong ngày. Khế là trái có vị chua, tính mát, giúp sinh tân dịch, thanh nhiệt từ đó “làm mát” cơ thể.

Dù điều trị bằng phương pháp nào, trong quá trình bệnh, người bệnh cũng nên uống nuốc đầy đủ ít nhất 2 lit/ngày, ăn kèm nhiều “đồ mát” như rau quả tươi,…để tăng tác dụng thanh nhiệt.

ThS. BS CK1. Trần Minh Quang – Viện Y dược học dân tộc TP.HCM
(Nguồn Báo Khoa học & Đời sống)
 

Tác dụng của cây Lá đắng (lá mật gấu)

Hiện phong trào sử dụng lá cây “Mật gấu” làm thuốc rất phổ biến. Thực chất đây là cây Lá đắng (khi nhai lá có cảm giác đắng nhưng sau đó lại có vị ngọt trong miệng) ở dạng ăn như rau hoặc nấu nước uống. Cây lá đắng (bitter leaf) có tên khoa học là: Vernonia amygdalina Del. hoặc Gymnanthemum amygdalinum thuộc họ Cúc (Asteraceae). Cây này được sử dụng từ rất lâu trong y học dân gian ở một số nước Châu Phi (Nigeria, Cameroon, Zimbawe) và Châu Á trong đó hiện phổ biến ở các Nước Đông Nam Á.

Tại Tp. HCM, người dân quen gọi cây Lá đắng với các tên: cây Mật gấu, cây Cơm kìa, cây Kim thất tai. Nhưng thực tế, 3 cây kể trên là tên của ba loại cây rất khác nhau về thực vật, thành phần hoá học cũng như tác dụng trị bệnh.
Trong bài viết này chỉ giới thiệu cây Lá đắng (vì hiện được trồng phổ biến và nhiều người sử dụng) về kết quả của các nghiên cứu từ nước ngoài về thành phần hoá học, tác dụng, cách dùng trong trị bệnh cũng như những lưu ý khi sử dụng trong hỗ trợ chữa trị một số bệnh thường gặp.
1. Thành phần hoá học:
Vị đắng của lá do những chất alkaloids, saponin, tannin, glycoside. Cây chứa các hợp chất có tác dụng sinh học khác như: terpene, steroid, coumarin, flavonoid, acid phenolic, lignan, xanthone, anthraquinone, edotide and sesquiterpene (có tác dụng kháng ung thư). Ngoài ra lá còn chứa các chất khoáng: magnesium, chromium, manganese, selenium, sắt, đồng, kẽm, Vitamin A, E, C, B1,B2. protein thô, chất xơ, chất béo, tro, carbohydrate, các acid amin quan trọng: Leucine, Isoleucine, Lysine, Methionine, Phenyl alanine, Threonine, Valine, Histidine, Tyrosine.
2. Tác dụng dược học:
Những hợp chất trong Lá đắng có tác dụng hỗ trợ điều trị các bệnh do quá trình viêm mạn tính, lão hoá, bệnh nhiễm giun sán, động vật nguyên sinh (protozoan) và vi khuẩn.
Theo công bố trên Quyển Y – Sinh học thực nghiệm tháng 2 năm 2004 (Experimental Biology and Medicine of February 2004 Edition) cho thấy lá Đắng có tác dụng hạ thấp tỉ lệ nguy cơ bị ung thư vú.
Lá Đắng dùng nấu dạng canh rau hay xay nhuyễn lấy nước uống như dạng nước bổ dưỡng trong nhiều dạng bệnh lý khác nhau. Nhiều thầy thuốc ở Châu Phi khuyên người dân dùng trị bệnh đường tiêu hoá, đái tháo đường, chán ăn, kiết lỵ và các chứng rối loạn tiêu hoá.
Các Polyphenol có tính kháng viêm và anti – oxidant, thải độc, bảo vệ thận, gan, hỗ trợ điều trị một số bệnh ngoài da. Giảm đường huyết, bao vệ tim mạch do giúp ổn định lipid máu.
3. Độc tính:
Sau 6 tuần cho động vật uống dịch chiết lá Đắng với nước, cho thấy không có sự khác biệt giữa động vật được uống và không uống nước lá Đắng về:
Mô học của tim, gan, thận và ruột khi sinh thiết,
Trọng lượng cơ thể,
Số lượng tế bào máu: hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu.
Kết quả này cho thấy dịch chiết lá cây Lá Đắng chưa ghi nhận độc tính trên thực nghiệm, ngay cả khi uống kéo dài.
4. Cây lá đắng dùng trị bệnh gì?
4.1. Dựa trên tác dụng dược học và kinh nghiệm sử dụng trong y học dân gian của các nước. Cây Lá đắng hiện được sử dụng như một chất chống oxy hoá, hỗ trợ điều trị một số loại mạn tính như sau:
Đái tháo đường type 2,
Rối loạn lipid máu,
Tăng huyết áp,
Một số bệnh đường tiêu hoá: viêm đại tràng, rối loạn tiêu hoá…
4.2. Các nhà nghiên cứu cho biết y học dân gian ở nhiều quốc gia đã dùng cây Lá đắng chữa bệnh:
Ấn Độ: dùng lá chữa tiểu đường, dùng cành, rễ hỗ trợ điều trị HIV, hạ sốt, giảm ho, phát ban, cảm cúm, viêm vú.
Congo: dùng lá và vỏ rễ chữa kiết lỵ, viêm dạ dày, ruột, sốt rét, viêm gan, nhiễm giun.
Nam Phi: dùng rễ chữa sán máng (huyết hấp trùng), hiếm muộn, rối loạn kinh nguyệt.
Ở khu vực Tây Phi: dùng lá làm trà lợi tiểu, chữa táo bón, nhiễm trùng da, đái đường, bệnh chuyển hóa liên quan đến gan…
5. Lời khuyên:
Qua quan sát bước đầu ghi nhận nhiều người bệnh bị Tăng huyết áp, Đái tháo đường, rối loạn tiêu hoá,…có sử dụng kèm nấu nước Lá Đắng nhận thấy ổn định đường huyết lúc đói (kết hợp ăn kiêng, sử dụng thuốc hạ đường liều thấp), ổn định chỉ số đo huyết áp, đặc biệt ổn định tình trạng rối loạn đại tiện (tiêu phân nát, đại tiện nhiều lần trong ngày), tăng cảm giác ngon miệng…
Phản ứng ngoại ý: chưa ghi nhận những phản ứng ngoại đáng kể. Tuy nhiên khi sử dụng liều cao (trên 15g) vài người bị táo bón, huyết áp giảm, cảm giác ngọt ở miệng kéo dài.
Mặc dù theo các tài liệu nước ngoài cho thấy Lá Đắng an toàn khi uống. Tuy nhiên, hiện trong nước chưa có công trình nghiên cứu thực nghiệm cũng như lâm sàng được công bố. Nên rất cần được theo dõi và đánh giá thêm.
Trong quá trình sử dụng cần tuân thủ sự kiểm tra của thầy thuốc cũng như nên định kỳ thực hiện các xét nghiệm đánh giá tình trạng bệnh cũng như chức năng gan, thận…
Sử dụng bắt đầu liều thấp, không ngưng đột ngột các thuốc đang điều trị đặc hiệu (thuốc hạ áp, hạ đường…) và theo dõi các biểu hiện bất thường của cơ thể. Liều khuyên dùng khoảng 10g lá tươi (khoảng 3 – 5 lá) và 5 – 8g lá dạng khô.
theo BS Trần Văn Năm

Lịch tập dưỡng sinh – Viện Y Dược Học Dân Tộc

Dưỡng sinh là một phương pháp của y học cổ truyền đã được trải nghiệm qua hàng trăm năm, nhằm giúp cho con người phục hồi, tăng cường sức khỏe chống lại bệnh tật. Về phương pháp dưỡng sinh, cố Bộ trưởng Bộ Y tế, Giáo sư Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng đã dày công nghiên cứu và đã đưa ra “Phương pháp dưỡng sinh Nguyễn Văn Hưởng” mang tính khoa học cao, dễ hiểu, dễ áp dụng. 

Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng luôn nhắc nhở đồng nghiệp và người bệnh phải phát huy khả năng tự điều chỉnh và phục hồi của cơ thể bằng tập luyện (vì cơ thể là nhà máy sản thuốc hiện đại nhất), không quá lệ thuộc thuốc đưa từ ngoài vào. Nếu cần đến thuốc sẽ ưu tiên sử dụng thuốc từ thiên nhiên (trừ những trường hợp khẩn cấp, cấp cứu) đặc biệt là Thuốc Nam (thuốc mọc hoặc trồng ở Việt Nam).

Hơn 40 năm qua, Viện Y Dược Học Dân Tộc Tiếp tục ứng dụng kết quả điều trị và nghiên cứu khoa học:

– Ứng dụng PPDS lâm sàng: điều trị bệnh Tăng huyết áp, Hen phế quản, Rối loạn lipid máu, Thoái hoá khớp, Rối loạn tiêu hoá, Thoái hoá cột sống, …
– Thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học: Khảo sát điện não khi thực hành thư giãn, Thay đổi các chỉ số hô hấp khi tập thở 4 thời; Khảo sát áp suất ổ bụng trong động tác phình thót bụng; Dưỡng sinh trị tiểu không kiểm soát, sa sinh dục; Cải thiện hồng cầu và dung tích hô hấp trên người bệnh ung thư; Động tác dưỡng sinh hỗ trợ điều trị trĩ…
– Giãng dạy PPDS được trong trường trung cấp và đại học Y khoa,
– Viết thành tài liệu: Những bài thuốc Nam trị bệnh hiệu quả,
– Bào chế được bài thuốc Toa căn bản ở dạng thích hợp,  Bài thuốc Toa căn bản có trong Phác đồ điều trị bệnh Sốt xuất huyết Dengue bằng YDCT của Bộ y tế.  (Nguồn Bs.Trần văn Năm, Phó Viện trưởng, Viện Y Dược Học Dân Tộc).
Từ đó đến nay, tập luyện được xem là một biện pháp không thể thiếu trong liệu trình điều trị tất cả các loại bệnh, nhất là các bệnh mạn tính không lây
 lịch tập dưỡng sinh tại Viện Y Dược Học Dân Tộc:
 

Thư cảm ơn của bệnh nhân Trần Thị Thu Nga

Viện Y Dược Học Dân Tộc thành phố Hồ Chí Minh
Chăm sóc tận tụy – Điều trị tận tâm

Ngày 22/07/2016, bà Trần Thị Thu Nga, bệnh nhân phòng 322, của khoa       Nội Cơ xương khớp, sau khi đã điều trị hết bệnh, xuất viện, bà đã gửi thư khen về sự phục vụ ân cần chu đáo, nhỏ nhẹ, vui vẻ của nhân viên y tế Viện Y dược học dân tộc, cụ thể là Bác sĩ Lê Đức Trí và điều dưỡng Nguyễn Thy Ngọc với nội dung bức thư như sau:

THƯ CẢM ƠN

Kính gửi: Ban Giám đốc Viện Y Dược Học Dân Tộc

Tôi: Trần Thị Thu Nga là bệnh nhân phòng 322 – Khoa Nội Cơ Xương Khớp. Tôi vào viện ngày 22-6-2016 với chẩn đoán: Thần Kinh Tọa – bên phải.

Vào viện được Bác sĩ: Lê Đức Trí và Điều dưỡng: Nguyễn Thy Ngọc đã tận tâm điều trị cộng với các điều kiện cơ sở y tế của Viện (Khoa xoa bóp) , nay đã được khỏi bệnh Thần Kinh Tọa mà còn chữa cả bệnh đau bao tử, chứng đau đầu mất ngủ.

Hôm nay được xuất viện, không có gì hơn là gửi lời chân thành cảm ơn tinh thần phục vụ cứu người, sự ân cần chu đáo, nhỏ nhẹ vui vẻ với bệnh nhân  của tập thể Y – Bác sĩ của Viện.

Thành thật cảm ơn
TP.HCM, ngày 27 – 7 – 2016

 

Trần Thị Thu Nga

 

Với những lời cảm ơn rất chân thành trên, đó là động lực rất to lớn, để đội ngũ y, bác sĩ, điều dưỡng của Viện Y dược học dân tộc tiếp tục phát huy chuyên môn, điều trị khỏi bệnh cho bệnh nhân, người bệnh sẽ rất an tâm khi đến Viện Y dược học dân tộc nằm viện và chữa bệnh.

Cách phòng ngừa bệnh Trĩ

Một ngày nào đó, bỗng nhiên bạn cảm thấy xốn khi ngồi làm việc hoặc cảm thấy rát hay ra chút máu khi đi tiêu, thậm chí thấy một cục lồi sa ra ở cửa hậu… Đó có thể là những dấu hiệu ban đầu của một căn bệnh khó nói – bệnh trĩ.
Căn bệnh này tuy có ảnh hưởng tới cuộc sống nhưng không nặng nề nên mọi người thường bỏ qua và còn vì lý do bệnh ở vùng kín đáo nên thường ngại ngùng nhất là phụ nữ. Thật sự là bạn khó tâm sự với ai và thường là tự đến một nhà thuốc nào đó mua một vài loại thuốc sử dụng để tự trấn an mình. Nhưng giờ thì bạn sẽ thật sự an tâm khi đọc bài viết này.

1. Bệnh trĩ là gì?
Là bệnh rất phổ biến, chiếm tỉ lệ khoảng 50-60% các bệnh lý vùng hậu môn trực tràng (trĩ, nứt kẽ hậu môn, rò (mạch lươn), sa trực tràng…). Căn nguyên là do dãn quá mức các đám rối tĩnh mạch trĩ. Vì thế nó không lây như một số người lầm tưởng.
Có 2 triệu chứng chính đưa chúng ta đi khám bệnh là chảy máu và sa búi trĩ.
Chảy máu là triệu chứng có sớm nhất và thường gặp nhất (ra máu dính giấy, chảy thành giọt hay thành tia..). Và tâm lý chung là mọi người thường sợ hãi khi thấy triệu chứng này!
Sa búi trĩ  thường xảy ra muộn hơn sau một thời gian đi cầu có chảy máu. Sau mỗi khi đại tiện thấy có khối nhỏ lồi ra ở hậu môn, lúc đầu nó tự tụt vào được, về sau càng to dần phải dùng tay nhét vào.
Ngoài 2 triệu chứng chính trên, có thể có kèm theo các triệu chứng khác như đau rát khi đi cầu, ngứa, chảy dịch quanh lỗ hậu môn… làm cho ta thiếu tự tin trong giao tiếp.
2. Yếu tố thuận lợi gây bệnh trĩ?
Các yếu tố sau đây được coi như là những điều kiện thuận lợi phát sinh bệnh :
– Rối loạn đi cầu : táo bón kinh niên hoặc đi cầu nhiều lần trong ngày,  khi đi cầu phải rặn nhiều làm tăng áp lực trong lòng ống hậu môn, kích thích niêm mạc hậu môn, lâu ngày làm các búi trĩ dãn to, sung huyết.
– Tăng áp lực ổ bụng : người lao động nặng như khuân vác.., thai phụ… làm tăng áp lực trong ổ bụng, dễ dàng mắc bệnh.
– Tư thế đứng: áp lực tĩnh mạch trĩ tăng cao hơn khi ở tư thế đứng. Vì vậy, bệnh thường gặp ở người phải đứng lâu, ngồi nhiều, ít đi lại như : nhân viên văn phòng, thợ may, tài xế…
– Một số bệnh lý gây bệnh thứ phát : như viêm phế quản mạn, dãn phế quản, viêm đại tràng mạn, ung thư trực tràng, u bướu vùng tiểu khung…

3. Điều trị như thế nào ?
Nếu bệnh trĩ không gây ra các biến chứng như : chảy máu, tắc mạch tạo cục máu đông, trĩ sa nghẹt sưng đau, nhiễm trùng lở loét… thì không cần điều trị. Chỉ điều trị khi trĩ gây những rối loạn ảnh hưởng đến sinh hoạt và năng suất lao động của người bệnh. Tuy nhiên điều trị ở giai đoạn sớm sẽ tránh cho bạn những biến chứng phiền toái về sau.
Bạn cần đến những cơ sở y tế có uy tín, kinh nghiệm và đúng chuyên ngành hậu môn trực tràng để được chẩn đoán chính xác và lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp để tránh những biến chứng, di chứng đáng tiếc xảy ra như: chảy máu, hẹp hậu môn, đại tiện mất tự chủ (do tổn thương cơ vòng)…
Phương pháp điều trị hiện nay phân thành 3 nhóm:
1. Không can thiệp : thường dùng một số thuốc trợ tĩnh mạch để giải quyết triệu chứng là chính, kết hợp chế độ ăn uống, tập luyện thể dục, dưỡng sinh…
2. Thủ thuật : tiêm xơ, thắt vòng cao su, quang đông hồng ngoại (ít sử dụng).
3. Phẫu thuật : khoảng 10% chỉ định điều trị (dao điện, laser, khâu treo, Longo…) với chi phí khá cao.

Chúng tôi xin giới thiệu với các bạn một phương pháp điều trị
An toàn – Hiệu quả cao – Ít tốn kém và không ảnh hưởng nhiều đến công việc.
Đó là Phương pháp điều trị bệnh trĩ bằng thủ thuật tiêm PG60 đang thực hiện tại Khoa Ngoại Tổng hợp Viện Y Dược học dân tộc TP.HCM trong hơn 40 năm qua và phổ biến rộng rãi ở các tỉnh thành phía Nam.

Người thầy thuốc  sẽ tiếp nhận nỗi lòng khó nói của bạn một cách  nhẹ nhàng, tế nhị. Sau khi trao đổi tình trạng bệnh, bạn sẽ nằm nghiêng phải trên bàn khám một cách kín đáo. Bác sĩ và cộng sự của mình sẽ bộc lộ và tiêm một dung dịch đặc biệt vào các búi trĩ sa dãn. Bạn sẽ chỉ thoáng có cảm giác đau và một chút khó chịu (có thể có) vài giờ sau khi tiêm. Mất khoảng 3 phút thế là xong và bạn vẫn có thể tiếp tục công việc của mình một cách bình thường. Tùy thuộc vào mức độ bệnh lý và khả năng đáp ứng, một liệu trình điều trị sẽ kéo dài 3 – 15 lần, mỗi tuần từ 1 – 3 lần. Búi trĩ sẽ dần dần co teo và biến mất. Chi phí cho một đợt điều trị thật sự phù hợp với điều kiện kinh tế của đa số mọi người.
Bạn sẽ có một cảm giác mới lạ thật sự thoải mái sau khi điều trị ở đây. Hãy đến và cảm nhận nhé!
 
4. Phòng bệnh và phòng ngừa tái phát một cách đơn giản là ngăn chặn các yếu tố thuận lợi phát sinh bệnh bằng cách :
– Tập thói quen đi cầu đều đặn hàng ngày.
– Điều chỉnh thói quen ăn uống: hạn chế các chất kích thích như rượu, trà, cà phê…, các thức ăn nhiều gia vị như ớt, tiêu…
– Uống nước đầy đủ (1,5 – 2 lít/ngày)
– Ăn nhiều chất xơ từ rau củ, nước ép, trái cây tươi.
– Nên tập thể dục, dưỡng sinh và chơi các môn thể thao nhẹ như bơi lội, đi bộ…
Bệnh trĩ tuy không nguy hiểm nhưng nếu không biết quan tâm phòng ngừa, chữa trị sớm và đúng cách, có thể gặp nhiều biến chứng và hậu quả xấu, gây tổn hại đến sức khỏe và cuộc sống hạnh phúc trong gia đình. Và bây giờ bạn đã có thể trút bỏ nỗi niềm riêng của mình một cách nhẹ nhàng rồi đó!

Ths.Bs. Nguyễn Tuấn Quyên

Lịch học tháng 08/2016 – Lớp YOGA tại Viện Y Dược Học Dân Tộc

Yoga giúp cho cơ thể dẻo dai, tăng sức đề kháng, ngăn ngừa bệnh tật, đồng thời giảm stress, mang tới tinh thần lạc quan và thanh bình. Tập các bài tập yoga, hay còn gọi là asanas, đều đặn giúp giảm dần và trị hết những chứng bệnh thường gặp như đau lưng, thấp khớp, đau bao tử, nhức mỏi, mỏi mệt, mất ngủ, nhức đầu, thần kinh và tim mạch, v.v.  Các tư thế “thư giãn”, “xác chết” và “hoa sen” thường xuyên giúp cho tinh thần yêu đời, ham thích phục vụ và tâm trí an lạc, bình an.

LỚP YOGA CƠ BẢN TẠI VIỆN YDHDT
273 Nguyễn Văn Trỗi, Q. Phú Nhuận, TP. HCM
 LỊCH HỌC THÁNG 08/2016
 
Lớp
Ngày bắt đầu
Giờ học
Thời khóa biểu
Phòng tập
Học phí
Lưu ý
bản
03/08/2016
18:00 – 19:30
Thứ tư
Hội trường, lầu 2
400.000 đồng/8 buổi
ngày đầu tiên, hv lớp buổi tối có thể đến sớm 15p để đóng tiền tại phòng Dịch vụ Ngoài giờ (17g45) và học viên lớp sáng T7 có thể đóng tiền sau khi tập (7g30)
Trung cấp
04/08/2016
18:00 – 19:30
Thứ năm
 

Chuyên sâu

06/08/2016
06:00 – 07:30
Thứ bảy
Đối tượng: nam, nữ, từ 18 tuổi đến 70-80 tuổi, chưa biết về yoga, hoặc biết rồi nhưng muốn có một trình độ cơ bản về yoga và chương trình tập luyện tập nhà riêng cho mình, tốt cho sức khỏe và cả tâm trí.
Đăng ký, đóng tiền tại phòng Dịch Vụ Ngoài Giờ – cạnh Khoa Khám Bệnh – (làm việc từ 16:30 đến 19:00 thứ hai tới thứ sáu, thứ bảy từ 7h30 – 11h30. Mời sắp xếp thời gian để vô học ngay vào ngày đầu, chuẩn bị quần áo thun thể thao (có phòng thay đồ trên lầu) và thảm yoga (có thể mua sẵn hoặc mua tại lớp – 250.000/bộ đồ yova, 180.000/thảm yoga đã có túi). Chi tiết xin liên hệ: 0903.004984 (Cô Khanh) hoặc 083.820.1196 (Cô Tám).
Lớp yoga có 3 trình độ cơ bản, trung cấp và nâng cao (rơi vào những ngày khác nhau, tùy trình độ). Mỗi lớp gồm 8 buổi học (2 tháng), tuần 1 buổi. Học viên đến lớp tập để ôn tư thế cũ và học tư thế mới để về tự tập ở nhà những ngày còn lại trong tuần. Ngoài các động tác, học viên còn được hướng dẫn thực hành những thói quen tốt trong sinh hoạt và nghe những đề tài nâng cao tâm trí.

Hành trình về nguồn nhân ngày Thương binh Liệt sĩ 27 – 7

Hòa mình vào không khí của cả nước kỷ niệm 69 năm ngày Thương binh Liệt sĩ (27/7/1947 – 27/7/2016) , trong những năm qua Đảng ủy – Ban Giám đốc Viện luôn chú trọng trong công tác giáo dục ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi công dân tới cán bộ, viên chức Viện.

Ngày 23-24/07/2016, Đảng ủy – Hội cựu chiến binh – Đoàn thanh niên Viện đã tổ chức hành trình “về nguồn” 3 tỉnh : Đồng Tháp – Long An – Bến Tre nhằm đẩy mạnh trong công tác chăm sóc, đền ơn đáp nghĩa đối với người và thân nhân có công với cách mạng đồng thời giáo dục chính trị tư tưởng cho đoàn viên, thanh niên, ôn lại truyền thống Cách mạng của Đảng, Chính phủ và Bác Hồ kính yêu.

Tại Đồng Tháp, Đoàn đã đến thắp hương và viếng mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc; nghe giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, nhà nho nghèo yêu nước, thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu. Tại khu di tích , Đoàn đã có buổi sinh hoạt giữa Hội Cựu Chiến Binh – Đoàn thanh niên,được nghe cựu chiến binh ôn lại những truyền thống hào hùng trong các cuộc chiến bảo vệ tổ quốc, chia sẻ những câu chuyện đời thường, những phẩm chất tốt đẹp của người lính cụ Hồ.

1 2

Tại Bến Tre , Đoàn đã đến thăm di tích Căn cứ Khu ủy Sài Gòn – Gia Định (còn gọi là Y4 hay T4), là một căn cứ quan trọng trong những năm chống Mỹ cứu nước. Tại đây, đoàn đã được nghe giới thiệu về lịch sự hào hùng của khu di tích, tham qua nhà ở và nơi làm việc của nhà lãnh đạo Võ Văn Kiệt, những chiến tích hào hùng của các bậc lão thành cách mạng, sự hy sinh của nhiều thế hệ chiến sĩ, đồng bào, đặc biệt là các chiến sĩ thuộc đơn vị Y4.

8 10 13

Cũng trong chuyến hành trình này, Đoàn đã đến thăm hỏi sức khỏe các Mẹ Việt Nam Anh Hùng, Tại mỗi nơi đến, đoàn đã ân cần thăm hỏi sức khỏe, đời sống sinh hoạt của các mẹ, đồng thời gửi tặng các Mẹ 1 triệu đồng tiền mặt và 1 phần quà 1 triệu đồng nhằm bày tỏ lòng tri ân đối với những hy sinh cao cả của người thân trong gia đình đã góp phần to lớn vào công cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc và kính chúc các Mẹ luôn sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc và trường thọ giữ gìn nét truyền thống văn hóa dân tộc.

Mẹ Nguyễn Thị Út – Ấp Nhơn Trị, Xã Nhơn Thạnh Trung, Thành phố Tân an – Long An.

Mẹ Nguyễn Kim Ba – Ấp 2, Xã Hướng Thọ Phú, Thành phố Tân An – Long An.

Mẹ Huỳnh Thị Sáu  – Ấp Tân hòa, Mỏ Cày Bắc – Bến Tre.

Mẹ Trần Thị Giá – Ấp 1, Phú Nhuận, Thị xã Bến Tre – Tỉnh Bến Tre.

Mẹ Lê Thị Ba – Xã Tân Phú Tây, Mỏ Cày Bắc – Bến Tre

14 15 16 19

20

Thư cảm ơn của bệnh nhân Hồ Thị Phê

Ngày 08/07/2016, bà Hồ Thị Phê, bệnh nhân phòng 326 giường 35 của khoa Nội Cơ xương khớp, sau khi xuất viện đã gửi thư khen về phong cách phục vụ bệnh nhân rất thân thiện của nhân viên y tế Viện Y dược học dân tộc.

Bà Phê đã viết thư khen thái độ phục vụ ân cần thăm hỏi, làm xoa dịu nổi đau của bà, cách châm cứu rất mát tay của bác sĩ Dương Ngọc Trâm Anh đang công tác tại khoa Nội Cơ xương khớp của Viện.  Trong quá trình điều trị và khi xuất viện, về nhà  bà Phê đã giảm đau, cảm thấy yên tâm và tìm thấy được sự bình an trong tâm hồn.

Bức thư thể hiện lòng biết ơn đối với đội ngũ y bác sĩ tận tâm trong quá trình điều trị chăm sóc bệnh nhân. Viện Y dược học dân tộc  trân trọng giới thiệu bức thư  này:

ThuCamOn

Với nội dung thể hiện qua bức thư thái độ nhiệt tình, ân cần, cởi mở của các y bác sĩ, điều dưỡng của Viện Y dược học dân tộc là liều thuốc giúp người bệnh nhanh chóng bình phục. Những bức thư cảm động, đầy niềm tin và sự cảm ơn chân thành của người bệnh là động lực to lớn, để đội ngũ y, bác sĩ, điều dưỡng của Viện tiếp tục phát huy tinh thần, nâng cao trách nhiệm trong khám và điều trị bệnh nhân.

Hiểu đúng “Thuốc bổ”

“Thuốc bổ” được hiểu một cách nôm na là những loại dược phẩm (hay chế phẩm từ dược liệu) có tác dụng thúc đẩy hoặc tăng cường chức năng hoạt động của các hệ thống cơ quan trong cơ thể. Thường nhiều người vẫn sử dụng thuốc bổ nhằm cung cấp những chất mà cơ thể đang bị thiếu hụt như: vitamin, muối khoáng, acid amine, chất béo…

ThuocBo

Tuy nhiên, trong sinh hoạt sống hằng ngày, cơ thể chúng ta bị tấn công bởi quá nhiều độc chất từ môi trường bên ngoài cũng như bên trong cơ thể: không khí ô nhiễm, thức ăn – nước uống không an toàn, chất kích thích (rượu bia, thuốc lá), thuốc trị bệnh, stress tâm – thể, gốc tự do, chất AGEs… Do đó, với mục tiêu của thuốc bổ là giúp cơ thể cải thiện các hoạt động của cơ quan, rất cần có  liệu pháp thanh lọc. 

Vậy, liệu pháp thuốc bổ không chỉ “cung cấp” mà còn “thải bớt, loại bỏ” những độc chất nội sinh và ngoại sinh ra khỏi cơ thể.
Thanh lọc cơ thể bằng cách nào? Cần thực hiện:

– Uống đủ nước,
– Tập thể dục, xoa bóp, thở sâu,
– Ưu tiên sử dụng một số thức ăn có tác dụng chống gốc tự do như: Gừng, Nghệ, Rau có màu xanh đậm, Xoài, quả Bơ, quả cherry…
– Một số cây thuốc nam có tác dụng thải độc dễ tìm:

Số tt Tên thuốc Lượng (g) Tác dụng Thuốc thay thế
1 Cỏ mực 10 – 12  Cầm máu, hạ nhiệt, thải độc, chống viêm. Lá Huyết dụ, Trắc bá diệp.
2 Rễ tranh 8 – 10 Lợi tiểu, cầm máu, hạ nhiệt Râu ngô, Râu mèo, Mã đề, Rễ cây Dứa dại.
3 Rau má 10 – 12 Lợi mật, chống dị ứng, kháng sinh, chống viêm. Rau đắng lá lớn, Tinh tre, Trái khổ qua.
4 Lá muồng trâu 3 – 5 Nhuận trường, lợi mật, lợi tiểu. Vỏ Cây đại, Lá mơ long
5 Cỏ Mần trầu 10 – 15 Hạ nhiệt, chống viêm, diệt khuẩn. Lá dâu tầm, Kim ngân hoa, Rau sam, Sài đất.
6 Gừng 3 – 5 Loãng đàm, kích thích tiêu hoá, chống viêm. Củ riềng, Vỏ Bưởi, Vỏ Phật thủ
7 Cam thảo nam 10 – 12 Lợi tiểu, hạ nhiệt, chống viêm, diệt khuẩn. Mía, Cam thảo dây, Hạt Đậu xanh.
8 Ké đầu ngựa 8 – 10 Ra mồ  hôi, hạ nhiệt, kháng sinh, chống dị ứng. Ké hoa đào, Ké hoa vàng, Ké hoa đào, Ô rô nước
9 Củ sả 4 – 6 Kích thích tiêu hoá, ra mồ hôi, tiêu thức ăn. Thuỷ xương bồ
10 Trần bì 4 – 6 Kích thích tiêu hoá, loãng đờm, giảm ho. Vỏ Cam, Chanh, Bưởi

Tóm lại:

Thuốc bổ không đơn thuần là bổ sung mà tuỳ thuộc giai đoạn bệnh, thể trạng người bệnh. Chúng ta sẽ chọn “cung cấp” hay “thanh lọc”, loại bỏ yếu tố “cơ hội” làm suy yếu cơ thể hay kết hợp cả hai cùng một lúc. Y học cổ truyền gọi là pháp “công bổ kiêm trị”.

Bs Trần Văn Năm – Nguyên phó viện trưởng, Viện Y Dược Học Dân Tộc

Đơn vị liên kết

thoi gian lam viec







r>

BÀI MỚI