







Ths.Bs Trần Minh Quang, Khoa Nội Tim Mạch – Thần Kinh.
Ths.Bs Trần Minh Quang, Khoa Nội Tim Mạch – Thần Kinh.
Hơn 10 năm qua, Khoa Nội II, Viện Y dược học dân tộc TP.HCM (273 – 275 Nguyễn Văn Trỗi, Q.Phú Nhuận, TP.HCM) đã trở thành một “địa chỉ đỏ” cho hàng trăm bệnh nhân ung thư tới điều trị với “liệu pháp 4 T”. Những người trong cơn “thập tử nhất sinh” đã giảm nhẹ những cơn đau, những lo âu, thậm chí có bệnh nhân sống được hơn 10 năm, lập gia đình và sinh con sau khi bị ung thư.
Tây y chê, Đông y cứu
“Đã 10 năm trôi qua, nằm mơ tôi cũng không thể ngờ mình vẫn sống và có được như ngày hôm nay: lấy chồng, sinh hai đứa con khỏe mạnh một trai, một gái” – chị Hoàng Thị Bích N. (30 tuổi, ngụ Q.Tân Bình) xúc động cho biết. 10 năm trước chị N. bị u đại bào xương đùi phải. Sau ghép xương một năm, bệnh tái phát nhanh, người suy kiệt, đầu gối sưng to, không đi và không ăn ngủ được. “Bác sĩ khuyên tôi phải chấp nhận đoạn chi, cưa ngang đùi. Lúc đó tôi chưa lập gia đình. Cưa chân để kéo dài cuộc sống là điều mình chưa bao giờ nghĩ tới. Tôi nghĩ mình đằng nào cũng chết, để vậy khi “nhắm mắt” cũng còn lành lặn đôi chân. Trong thời gian đợi mọi người lo hậu sự, may sao có người bà con chỉ cho tôi đến Khoa Nội II, Viện Y dược học dân tộc. Trong tâm trạng hoài nghi, bi quan, tôi gặp được BS Quan Vân Hùng, khi đó là Trưởng khoa Nội II. Ông đã dành hẳn cho tôi một buổi sáng, tìm hiểu bệnh án, hỏi han và động viên tôi. Và, tôi tham gia chương trình điều trị của BS Hùng. Không ngờ bệnh đỡ dần, khối u trên chân phải dần nhẹ bớt, sau ba tháng tôi tự đi lại được… Sau ba năm tôi lập gia đình và năm 25 tuổi tôi sinh con đầu lòng, cháu hoàn toàn khỏe mạnh. Tôi đã có bé thứ hai, hàng ngày tôi vẫn đi làm tại cửa hàng tạp hóa, chăm sóc gia đình dù bệnh chưa khỏi hẳn, cảm giác đau một chút khi thay đổi thời tiết”.
Có mặt tại Khoa Nội II, Viện Y dược học dân tộc TP.HCM, trước mắt tôi là một dãy phòng khiêm tốn, nhưng yên tĩnh và thoang thoảng mùi cây cỏ. Nơi đây đang tiếp nhận điều trị cho hơn 70 người mắc bệnh nan y. Chúng tôi gặp bà cụ H.T.M. đang cầm một chai thuốc sắc, nhâm nhi từng ngụm nhỏ. Cụ H.T.M. (85 tuổi, Q.Phú Nhuận) nhà cạnh Viện Y dược học dân tộc TP.HCM bị bệnh ung thư. Cụ M. nói: “Tôi nằm ở đây đã hơn một năm rồi, trước khi đến BV, chân tôi tê buốt, nhức ghê lắm, giờ đỡ hơn nhiều. Trước đây mất ngủ triền miên, người chỉ có 30kg, nay được 32kg, ăn, ngủ đã khá hơn”.
Ông H.V.K. (60 tuổi, ở Quảng Ngãi) kể, sau khi phát hiện ông bị ung thư dạ dày đã di căn vào gan, phổi BS đã cắt bỏ phần có khối u. Ông K. về với gia đình và uống thuốc theo đơn. Sức khỏe của ông giảm sút rõ rệt. “Còn nước còn tát”, được sự tư vấn của người quen, con gái của ông đưa ông vào TP.HCM, tới Viện Y dược học dân tộc TP.HCM để điều trị bằng Đông y. Rất đáng mừng, sau gần một năm, lời tiên lượng của BS mổ cho ông đã không những không xảy ra mà các triệu chứng khó chịu trước đây như nôn nao, mặt mày xây xẩm, đau đớn đã dần biến mất. Ông sống lạc quan hơn, vui vẻ hơn và có thể phụ giúp gia đình các công việc nhẹ nhàng.
Liệu pháp “4 T”
Theo BS Quan Vân Hùng (người nghiên cứu và đưa phương pháp 4 T vào ứng dụng), ung thư là một bệnh lý đặc biệt. Y học hiện đại đã có những thành công trong việc tiêu diệt các tế bào ác tính bằng những “vũ khí” hạng nặng như: phẫu thuật cắt bỏ khối u, hóa trị, xạ trị… Tuy nhiên, sau khi sử dụng những “vũ khí” hiện đại trên để tiêu diệt kẻ thù thì “quân ta” cũng bị tổn thất không nhỏ, nhiều tế bào, mô, bộ phận khác của người bệnh cũng bị ảnh hưởng, khiến người bệnh có cảm giác đuối sức, ói mửa, mất ăn, mất ngủ, suy kiệt… Vì vậy, phải có một cơ chế “hậu chiến”. Vấn đề là người thầy thuốc phải nỗ lực giúp cho người bệnh thổi lên ngọn lửa từ đám tro tàn. Thầy thuốc “mát tay” sẽ giúp cho tinh thần bệnh nhân được cải thiện, sức khỏe tăng tiến hơn, khối u bị ức chế một phần cũng bớt tàn phá cơ thể, bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối vẫn có thể cầm cự được với bệnh. Ý nghĩa cuộc sống đôi lúc không phải chỉ đo bằng khoảng thời gian dài hay ngắn mà nó lại nằm ở chất lượng sống. Và đó là điều mà người thầy thuốc đang cố gắng chuyển cho người bệnh. Liệu pháp 4T gồm: Tâm lý – Thực phẩm – Thể thao – Thuốc. Tạo tâm lý thoải mái, bớt lo âu, căng thẳng, không sợ hãi cho người bệnh. Người bệnh có chế độ ăn – thực phẩm phù hợp, kiêng một số thức ăn, uống có hại cho cơ thể; ăn một số thực phẩm chống ung thư và bồi dưỡng sức khỏe. Người bệnh được tập dưỡng sinh, đi bộ, thái cực quyền… Thuốc: kết hợp Đông Tây y, châm cứu, bấm huyệt).
BS Trần Tuấn Khanh, Phó Trưởng khoa Nội II cho biết, hiện mỗi ngày, khoa có khoảng 70 bệnh nhân. Phương pháp nào cũng có ưu khuyết điểm, người bệnh cần tư vấn của BS, có thể điều trị Tây-Đông y phối hợp để đạt hiệu quả cao nhất. Trong những trường hợp bệnh tiến triển vào giai đoạn cuối không thể sử dụng “vũ khí” hạng nặng như phẫu thuật, hóa trị, xạ trị thì cần biết rằng ngành y học cổ truyền có thể giúp kéo dài cuộc sống, cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh.
Muốn phòng ngừa và điều trị bệnh mạn tính, ngoài dùng thuốc, còn phải hướng dẫn bệnh nhân kiên trì thực hiện thay đổi lối sống và thay đổi chế độ ăn. “Liệu pháp 4T” của Viện Y dược học dân tộc TP thực hiện như sau:.
T1 – Tạo một lối sống – tinh thần luôn bình an (thanh tâm), tiến tới lối sống “3 giảm – 1 không”. Tức là giảm lo, giảm buồn, giảm giận và không sợ. Theo y học cổ truyền, lo lắng sẽ hại bộ máy tiêu hóa (tư thương tì), buồn sẽ hại bộ máy hô hấp (bi thương phế), giận hại bộ máy vận động (nội thương can), sợ hại bộ máy sinh dục, tuyến thượng thận, thận, xương tủy (khủng thương thận). Thường xuyên lo sợ là nguy hiểm nhất vì gây suy giảm miễn dịch.
T2 – Thực phẩm – chế độ ăn: Người bệnh chọn các thức ăn uống có chứa các vitamin kháng ung (vitamin A, B, C, E), có khoáng chất chống ung thư (ma-nhê, kẽm, germanium, selenium). Nên kiêng cữ hẳn: mỡ động vật (heo, gà, bò), hạn chế thịt nướng – hun khói – chiên, muối, đường, trứng, hóa chất (phẩm màu, hương – vị thực phẩm, chất bảo quản, phụ gia…), thực phẩm công nghiệp – đồ hộp. Bệnh nhân nên ăn những thực phẩm tươi, cơm gạo lứt, rau (bông cải, dền, bắp cải), củ (cà rốt…), đậu (đậu trái, đậu hột: đậu đen-đỏ), nấm (nấm bào ngư, nấm đông cô, nấm tuyết, nấm mèo đen, nấm kim chi, nấm mỡ, nấm hầu thủ), rong tảo biển, trái cây (táo, dâu…), tỏi, hành tím, rau thơm, mè đen. Ngoài ra, cần uống đủ nước, nước khoáng kiềm, nước trà xanh, nước trái cây, nước gạo lứt rang, nước đậu đen, sữa đậu nành tươi (mới nấu).
T3 – Tập dưỡng sinh: Có nhiều phương pháp tập luyện nhằm nâng cao sức khỏe (hệ miễn dịch) như xoa bóp giúp thúc đẩy lưu thông khí huyết, chống ứ trệ; tập thở sâu khi mệt, căng thẳng; tập thái cực quyền (môn võ dưỡng sinh rất phù hợp cho người lớn tuổi, sức khỏe kém, vừa giúp vận động toàn thân, lại giúp tinh thần bình an); tập khí công, yoga…; đi bộ chậm, thở sâu.
T4 – Thuốc: thuốc Tây (điều trị triệu chứng) kết hợp với Đông dược, chú ý dược liệu bổ tinh-khí thần, dùng thuốc từ cây cỏ, cơ thể hấp thu dễ, nhanh, tăng cường lưu thông khí huyết, không phản ứng phụ.
BS Quan Vân Hùng
“Thời gian qua, việc hỗ trợ điều trị ung thư bằng y học cổ truyền nói chung và sử dụng phương pháp 4T nói riêng đã có những hiệu quả nhất định, góp phần không nhỏ trong việc cải thiện sức khỏe và chất lượng sống cho người bệnh. Phương pháp này đang được nhân rộng trong cộng đồng”.
BS Trần Hữu Vinh
(Trưởng phòng Quản lý y học cổ truyền Sở Y tế TP.HCM)
Theo phunuonline.com.vn(http://phunuonline.com.vn/xa-hoi/thoi-lua-tu-dong-tro-tan-39488)
Có lẽ mọi người lo lắng nhất khi bị bệnh zona (Dời leo, herpes zoster) là những biểu hiện các bóng nước ngoài da, một trong những bệnh thường gặp ở những người cao tuổi có sức đề kháng giảm. Tuy nhiên, người trẻ tuổi với tổng trạng không suy nhược cũng thỉnh thoảng có thể mắc phải.
1. Nguyên nhân gây bệnh: Do vius có tên varicella zoster tấn công vào cơ thể.
2. Biểu hiện của bệnh:
– Cảm giác đau rát vài ngày (lúc này chưa có các mụn nước xuất hiện, rất dễ nhằm với đau dây thần kinh liên sườn, đau do nguyên nhân khác) trước khi xuất hiện các bỏng nước trên mặt da, mọc thành từng cụm đường kính trung bình từ 2 – 3 cm, có thể lan nhanh và nổi thành từng mảng to. Vị trí của các bóng nước nằm trên vùng da chi phối của dây thần kinh bị bệnh.
– Có thể sốt nhẹ chung quanh 38 độ C kèm nhức mỏi cơ như các dấu hiệu của một loại virus cảm cúm thông thường.
– Dấu hiệu đặc trưng là đau, buốt, bỏng rát như bỏng lửa nơi các bỏng nước tương tự như bị chấn thương hoặc mụn nhọt sắp sửa mọc.
– Bệnh thường xảy ra vào mùa mưa, thời tiết lạnh kèm độ ẩm không khí cao. Đây cũng là thời điểm xảy ra bệnh do các loại siêu vikhuẩn như thuỷ đậu, sởi, quai bị…
– Các bóng nước kéo dài từ 15 – 20 này, khô dần và tróc ra để lại sẹo mất sắc tố melatonin nên sẹo có màu trắng. Đau sẽ giảm dần nhưng không khỏi hẳn có thể đau kéo dài từ 6 tháng đến 1 năm.
3. Phương pháp điều trị bằng YDCT:
Nguyên tắc chung: kháng sinh, chống viêm, chống bội nhiễm (nhiễm khuẩn cơ hội), tăng thải độc (đường đại – tiểu tiện), tăng sức đề kháng và điều trị càng sớm hiệu quả càng cao.
– Chăm sóc: nghỉ ngơi, ăn đủ chất (đặc biệt sinh tố B, C, A…có trong rau quả tươi), uống nhiều nước (khoảng 2 – 2,5 lít/ngày).
– Bôi ngoài: dịch chiết Hoàng liên, Tô mộc, tinh dầu mù u…
– Thuốc uống trong: thuốc Nam (Rau má, cỏ Mần trầu, Cỏ mực, Kim ngân hoa, Rễ tranh, Sài đất…; Chế phẩm (Toa căn bản, Thanh nhiệt tiêu độc – f…); Thuốc cổ phương (Nhân sâm bại độc gia giảm, Kinh phòng bại độc thang).
4. Kết quả:
Qua nhiều năm áp dụng quy trình điều trị trên, chúng tôi đã giúp người bệnh hạn chế được di chứng đau, rút ngắn thời gian tổn thương trên da, trong nhiều trường hợp nhẹ và khởi đầu điều trị sớm, không phải sử dụng đến các thuốc diệt virus tân dược như acyclovir, famciclovir, hay valacyclovir.
Ngày 23/10/2015 tại Viện Y dược học dân tộc Tp. Hồ Chí Minh (273, Nguyễn Văn Trỗi, Phường 10, Quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh) đã diễn ra hội thảo khoa học chủ đề “ Thành tựu khoa học của Châm cứu Việt Nam” và đào tạo y khoa liên tục năm 2015.
Hội thảo vinh dự được đón tiếp PGS.TS PHẠM VŨ KHÁNH – Cục trưởng Cục quản lý Y dược cổ truyền Bộ y tế; PGS TS NGUYỄN TẤN BỈNH – Bí thư Đảng ủy, Giám đốc sở y tế TP Hồ Chí Minh; ThS TRẦN VĂN XỒI – Phó bí thư thường trực Đảng ủy Sở y tế; GS TS NGHIÊM HỮU THÀNH – Giám đốc Bệnh viện Châm cứu Trung ương; BS LÊ HÙNG – Chủ tịch hội Đông y thành phố; PGS TS LÊ ANH THƯ – Phó chủ tịch Hội Thấp khớp học Việt Nam và sự hiện diện của các đồng chí là lãnh đạo Viện Y Dược học dân tộc, Bệnh viện Y Học cổ truyền và thường trực tỉnh hội Hội Đông Y các tỉnh thành khu vực phía Nam.
PGS.TS.BS. Phạm Vũ Khánh – Cục trưởng cục Y Dược Cổ Truyền – Bộ Y tế. Hội thảo thu hút hơn 400 người tham dự với nhiều chuyên đề bổ ích.
Đặc biệt tại phần giao lưu các vấn đề về Châm cứu, cả hội trường đã rất xúc động khi nghe phần chia sẻ nghẹn ngào của bệnh nhân Thảo Viên (khoa Nội Tim mạch – Thần kinh) về sự biết ơn sâu sắc của bản thân đối với GS TS NGHIÊM HỮU THÀNH (Giám đốc Bệnh viện Châm cứu Trung ương). Đó là vị thiên thần áo trắng mà ngay từ lần châm cứu đầu tiên đã giúp cô gái này đứng dậy, bước đi sau 2 tuần nằm trên giường do bệnh lý mạch máu não, để đón chờ nhiều hy vọng trong cuộc sống ở tương lai phía trước.
Hội thảo nhằm tạo điều kiện giao lưu, trao dồi y đức, bồi dưỡng, cập nhật và đào tạo liên tục chuyên môn nghiệp vụ, trong lực lượng thầy thuốc y học cổ truyền, và cán bộ viên chức ngành y học cổ truyền, góp phần đẩy mạnh công tác khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe người dân.
Bệnh xảy ra khi thời tiết thay đổi nhanh từ nóng sang lạnh hoặc ngược lại, nhưng tại phía nam Việt Nam tỉ lệ mắc bệnh nhiều vào những ngày tháng 11 đến tháng 2 Dương lịch hàng năm. Thời điểm khác trong năm vẫn có bệnh nhưng tỉ lệ bệnh thấp hơn.
Dây thần kinh số 7 đi qua ống xương trong sọ bên dưới tai đến chi phối cơ một bên mặt, bao gồm động tác nhắm và nháy mắt, biểu lộ cảm xúc như vui cười hay cáu giận. Thêm vào đó, dây thần kinh 7 còn chi phối tuyến nước mắt, nước bọt, và những cơ của các xương nhỏ của tai trong (xương bàn đạp) cũng như vị giác ở lưỡi. Nên khi bị tổn thương dây tk 7 xảy ra thì các bộ phận chịu sự chi phối của nó đều bị ảnh hưởng.
Bệnh LMNB có thường gặp không?
Theo Viện Sức khoẻ Quốc gia Mỹ (National Institute of Health, NIH), liệt mặt ngoại biên mỗi năm ảnh hưởng khoảng 40.000 nười Mỹ ở cả nam và nữ thường độ tuổi từ 15 – 60 tuổi, nhưng bất kỳ độ tuổi nào cũng có thể mắc bệnh.
Nguyên nhân chính xác đến nay chưa rõ, các nhà khoa học cho rằng hiện tượng viêm và phù nề dây thần kinh số 7 đóng vai trò chủ yếu, gây thiếu máu và oxygen đến nuôi dây thần kinh. Tổn thương có thể kết hợp với bệnh cúm hoặc giả cúm, đau đầu, viêm tai giữa mạn tính, tăng huyết áp, đái tháo đường, viêm đường hô hấp trên kéo dài, ung bướu…
Bệnh được chẩn đoán dựa chủ yếu vào sự khám xét của thầy thuốc là chính, đôi khi người bệnh có thể tự nhận biết hoặc nghi ngờ mình bị bệnh qua các biểu hiện như sau:
Các triệu chứng này xảy ra đầy đủ trong vòng 48 giờ.
Khi cần nghiên cứu hoặc những trường hợp người bệnh chậm hoặc phục hồi kém người thầy thuốc sẽ chỉ định thực hiện thêm các kỹ thuật cần thiết khác như: Đo điện cơ, chụp X-quang, chụp cắt lớp, cộng hưởng từ…
Chắc chắn LMNB không phải do hai bệnh lý kể trên gây ra, và tiên lượng LMNB nói chung rất tốt. Sự cải thiện dần dần và thời gian hồi phục hồi rất thay đổi từng người.
Có điều trị hay không có điều trị, đa số triệu chứng sẽ tốt dần sau khoảng 2 tuần và vận động cơ mặt phục hồi lại chức năng của nó sẽ tốt nhất vào khoảng từ 3 đến 6 tháng. Tuy nhiên trong vài trường hợp có sự phục hồi châm hàng năm và không hoàn toàn, thỉnh thoảng hiếm có trường hợp tái phát liệt cùng bên liệt cũ hoặc đối bên.
Theo Y Học Hiện Đại (YHHĐ):
– Thuốc chống viêm steroid (prednisone) để giảm viêm chống phù nề,
– Thuốc kháng virus (acyclovir) khi có bằng chứng nhiễm virus ( herpes, đậu mùa, herps zoster,…).
– Thuốc giảm đau (acetaminophen, aspirin, ibuprofen…) nếu có đau,
– Vitamin nhóm B.
– Lưu ý dùng dịch bôi trơn, làm ẩm tránh khô mắt gây nhiễm trùng mắt.
– Phẫu thuật thẩm mỹ , tiêm Botulinum toxin…đối với những trường bị co rút cơ mặt nhiều hoặc mắt nhắm không kín gây dễ nhiễm trùng, miệng di lệch gây khó khăn trong ăn uống, phát âm…
Theo Y Học Cổ Truyền (YHCT):
Châm cứu và thuốc YHCT được sử dụng hàng năm trong điều trị các chứng đau, liệt vận động… Thực tế cho thấy phần lớn người bệnh trong và ngoài nước ưa chuộng phương pháp điều trị dùng thuốc có nguồn gốc thiên nhiên cũng như phương pháp không dùng thuốc trong đó có châm cứu được nhiều bệnh tìm đến với mong ước là rút ngắn thời gian phục hồi vận động cơ mặt. Như chúng ta biết, không có gì khổ tâm bằng khi một mắt nhắm không kín, không dám cười với bạn bè, người thân (miệng méo một bên), không biểu lộ được hết cảm xúc vui buồn trên khuôn mặt…
Người bệnh liệt mặt ngoại biên đến với các cơ sở khám chữa bệnh bằng YHCT, thường nằm trong 3 dạng theo tỉ lệ từ cao xuống thấp:
– Đang được điều trị thuốc tại cơ sở khám chữa bệnh YHHĐ nhưng mong muốn nhanh phục hồi hoặc do phản ứng ngoại ý của thuốc kháng viêm, kháng virus…
– Quen dùng thuốc YHCT để chữa bệnh và quyết định chọn châm cứu để chữa bệnh,
– Điều trị thời gian dài bằng YHHĐ nhưng tình trạng liệt các cơ mặt phục hồi chậm.
Chúng ta nhìn lại các hiệu ứng của châm cứu đã được công bố và nhiều người đồng thuận:
Rõ ràng theo cơ chế bệnh của liệt dây thần số 7 ngoại biên: viêm, phù nề, chèn ép, đau thì rõ ràng châm cứu đã đáp ứng được yêu cầu điều trị bệnh liệt mặt.
Xu hướng chung, theo NIH liệt kê các biện pháp điều trị LMNB bằng liệu pháp hỗ trợ như: vật lý trị liệu, xoa bóp, kích thích điện, vitamin nhóm B và có Châm cứu.
Hãng thông tấn Reuters cho biết Liệu pháp châm cứu tích cực giúp hồi phục liệt mặt ngoại biên. Những nhà nghiên cứu Đại học Harvard cũng ủng hộ quan điểm châm cứu trị liệt mặt vì họ đồng ý rằng khi kim châm sẽ giúp tăng tuần hoàn máu mang theo theo dưỡng chất, chống viêm tại chỗ vùng cơ mặt bị liệt nên giúp phục hồi được bệnh liệt mặt.
Qua trải nghiệm thực tế của nhiều thầy thuốc YHCT ở Việt Nam cho thấy sử dụng châm hoặc cứu càng sớm tỉ lệ phục hồi càng nhanh. Cho dù chưa có những đề tài nghiên cứu về chữa trị liệt dây thần kinh mặt bằng châm cứu được thiết kế tốt, đạt quy chuẩn cũng như chưa có sự đồng thuận cao giữa các thầy thuốc YHCT và YHHĐ trong điều trị bệnh liệt mặt ngoại biên, nhưng hiện tại sử dụng châm cứu trong điều trị liệt mặt đang được cộng đồng chấp nhận vì mong muốn là bệnh được phục hồi càng sớm càng tốt và rõ ràng nếu được châm cứu ở những thầy thuốc có đào tạo tốt sẽ đạt hiệu quả cao và rất hiếm khi gây biến chứng hay ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ người bệnh.
– Giữ vệ sinh mắt: dùng chất làm trơn, nước mắt nhân tạo, nước muối sinh lý…để tránh khô mắt và hạn chế bội nhiễm mắt,
– Vệ sinh răng miệng: đặc biệt người cao tuổi và trẻ em, do không giữ được nước trong miệng nên lười chải răng, thức ăn ứ đọng bên má liệt…nên dễ bị viêm răng miệng, ảnh hưởng đến sức đề kháng của cơ thể gây chậm phục hồi bệnh nói chung,
– Cần giải thích, động viên người bệnh an tâm để có sự phối hợp và tuân thủ điều trị của thầy thuốc, tỉ lệ lành bệnh sẽ cao hơn.
Yoga giúp cho cơ thể dẻo dai, tăng sức đề kháng, ngăn ngừa bệnh tật, đồng thời giảm stress, mang tới tinh thần lạc quan và thanh bình. Tập các bài tập yoga, hay còn gọi là asanas, đều đặn giúp giảm dần và trị hết những chứng bệnh thường gặp như đau lưng, thấp khớp, đau bao tử, nhức mỏi, mỏi mệt, mất ngủ, nhức đầu, thần kinh và tim mạch, v.v. Các tư thế “thư giãn”, “xác chết” và “hoa sen” thường xuyên giúp cho tinh thần yêu đời, ham thích phục vụ và tâm trí an lạc, bình an.
Lớp
|
Ngày bắt đầu
|
Giờ học
|
Thời khóa biểu
|
Phòng tập
|
Học phí
|
Lưu ý
|
Cơ bản
|
04/11/2015
|
18:00 – 19:30
|
thứ tư hàng tuần
|
Hội trường, lầu 2
|
400.000 đồng/8 buổi
|
Hỏi phòng Dịch Vụ Ngoài Giờ để được hướng dẫn lên phòng tập
|
Trung cấp
|
02/11/2015
|
18:00 – 19:30
|
thứ hai hàng tuần
|
Hội trường, lầu 2
|
400.000 đồng/8 buổi
|
Biểu hiện rối loạn dạ dày – ruột (Gastrointestinal disorders) thường gặp nhất là chứng khó tiêu dành để mô tả tình trạng căng tức cấp hoặc mạn tính, tái diễn nhiều lần hay cảm giác khó chịu vùng thượng vị (nơi lõm đầu dưới xương ức), tức hoặc nóng thượng vị, no nhanh, đầy chướng sau khi ăn (định nghĩa theo Uỷ Ban Quốc Tế của những nhà khảo sát lâm sàng, Rome III committee). Cần phân biệt chứng khó tiêu với ợ nóng, vì chứng ợ nóng (heartburn) khi xuất hiện chủ yếu đó chính là biểu hiện của chứng trào ngược dạ dày thực quản.
Chứng khó tiêu chiếm 25% dân số người lớn và khoảng 3% trong số người bệnh đến khám tại các cơ sở chăm sóc y tế. Chỉ riêng chứng khó tiêu không là dấu hiệu đặc trưng của một bệnh nào, nhưng khi khó tiêu kéo dài và xuất hiện cùng một lúc với các dấu hiệu khác như: chán ăn, thay đổi vị giác, chướng bụng, buồn nôn, nôn, sụt cân, đau vùng bụng, thay đổi thói quen đi tiêu hay tính chất của phân… phải cần tìm nguyên nhân để chữa bệnh. Các nguyên nhân có thể gặp chứng khó tiêu hoá do bệnh lý của dạ dày như sau:
– Không dung nạp với thức ăn hoặc thuốc trị bệnh: khó tiêu thoáng qua hoặc cấp có thể do ăn quá no, quá nhanh, thức ăn chứa lượng dầu béo cao, căng thẳng khi ăn, hay uống nhiều rượu, cà phê. Các thuốc uống điều trị bệnh có thể gây chứng khó tiêu gồm: thuốc giảm đau không chứa steroid (NSAIDs), vài loại kháng sinh, thuốc trị bệnh tiểu đường (Metformin, a-glucosidase, kháng thụ thể GLP-1), thuốc hạ huyết áp (ức chế men chuyển, ức chế b), thuốc hạ lipid máu (fibrates), thuốc trị bệnh tâm – thần kinh, thuốc chống động kinh…
– Khó tiêu chức năng: đây là dạng thường gặp nhất của chứng khó tiêu mạn tính. Có đến 2/3 người bệnh không tìm gặp tổn thương thực thể cho dù thăm khám kỹ lưỡng. Cơ chế gây chứng khó tiêu này phức tạp có thể do mất sự đồng bộ trong dẫn truyền thần kinh, stress…mặc dù tính chất không nguy hiểm nhưng khó chữa khỏi hoàn toàn.
– Rối loạn chức năng khoang dạ dày – ruột: có khoảng từ 5 – 15 % bệnh loét dạ dày có triệu chứng khó tiêu, bệnh trào ngược dạ dày – thực quản chiếm 20% người bị khó tiêu, ngay cả họ không bị ợ nóng nặng. Những nguyên nhân khác bao gồm giảm nhu động dạ dày (đặc biệt gặp ở người bệnh đái tháo đường), không dung nạp lactose, hay tình trạng kém hấp thu, và nhiễm ký sinh trùng (Giardia, Strongyloides).
– Nhiễm Helicobacter pylori (HP): mặc dù nhiễm H.pylori mạn tính là nguyên nhân thường gặp nhất của loét dạ dày, nhưng hiếm khi gây chứng khó tiêu khi không có loét dạ dày. Tần suất của viêm dạ dày mạn tính nhiễm H. pylori có bị khó tiêu mà không có loét từ 20 – 50% dân số.
– Bệnh tuỵ tạng: ung thư tuỵ và viêm tuỵ mạn tính có thể bị chứng khó tiêu.
– Bệnh đường mật: cơn khởi phát đột ngột của đau thượng vị hay ¼ trên bên phải do bởi sỏi túi mật hay đường mật gây viêm tắc có thể kèm chứng khó tiêu.
– Những tình trạng bệnh lý khác: đái tháo đường, bệnh tuyến giáp, bệnh thận mạn tính, thiếu máu cơ tim, bệnh ác tính trong ổ bụng, xoắn dạ dày, thoát vị cận thực quản, có thai…đôi khi bị chứng khó tiêu.
Vì có sự liên hệ chặt chẽ giữa các cơ quan – bộ phận bên trong cơ thể và cơ thể với môi trường, nên phải điều trị với một biện pháp tổng hợp từ: kiểm soát, ổn định yếu tố tâm – thần kinh; thực hiện thói quen ăn uống hợp lý: ăn chậm nhai kỹ, ít chất béo, thông báo với bác sĩ điều trị để điều chỉnh một số thuốc có thể gây chứng chậm tiêu, hạn chế cà phê – rượu bia, bỏ thuốc lá. Riêng thuốc đông dược điều trị chứng chậm tiêu tuỳ theo tình trạng hiện có của cơ thể người bệnh, như sau:
– Tái lập cân bằng bài tiết dịch tiêu hoá (chất nhày, men tiêu hoá, dịch tuỵ – mật, acid dạ dày) đông y sử dụng nhóm thuốcTiêu đạo (Eupepsia) gồm các dược liệu: Sơn tra, Mạch nha, Thần khúc, dịch mật động vật, Kê nội kim, Nghệ…
– Điều hoà nhu động hoặc chống co thắt ống tiêu hoá (qua cơ chế thần kinh hoặc tại chỗ của dạ dày – ruột) đông y sử dụng thuốc Thông hoạt (activator, antispasmodic) như: Sa nhân, Hương phụ chế, Hậu phác, Chỉ thực, Chỉ xác, Uất kim…
– Chống vi khuẩn, ký sinh trùng: gồm các dược liệu có tác dụng thanh nhiệt, giải độc như: Hoàng liên, Hoàng bá, Mơ tam thể, Tỏi, Kim ngân hoa, Chè dây, Bồ công anh, Bạc hà…
– Khó tiêu và căng tức hay đau thượng vị lan dưới hạ sườn, bứt rứt, cáu gắt, uống nước lạnh – mát dễ chịu, khó ngủ, ợ chua – nóng, rêu lưỡi vàng, lưỡi nứt, tiêu bón…(đông y gọi là Chứng can khí uất, liên quan đến chứng thừa acid dạ dày): bài thuốc dạng sắc gồm: Sài hồ, Cúc tần, Chi tử: 8 – 10g; Táo nhân, Viễn chí: 6 – 8 g; Ô dước, Hậu phác, lá Muồng trâu, Uất kim: 4 – 6g; Bồ công anh, Rau má: 12 – 15g. Các chế phẩm tên thương mại: Tiêu dao đan chi, Tiêu dao – f.
– Khó tiêu và sợ lạnh, buồn nôn, đau âm ỉ thượng vị, lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, tiêu lỏng hay phân nát, ăn uống thức ăn ấm dễ chịu…(đông y gọi là Chứng tỳ vị hư hàn, liên quan đến chứng thiếu acid dạ dày), bài thuốc dạng sắc gồm: Sa nhân, Mộc hương, Hương phụ chế 6 – 8 g; Đảng sâm, Vỏ quýt, củ Sả, Bạch truật 8 – 10g; Chỉ thực, Bán hạ chế, Thuỷ xương bồ, Mai mực 6 – 8g. Chế phẩm tên thương mại: Hương sa lục quân, Bình vị tán,…
– Các thể bệnh khác sẽ được bổ sung hoặc thay đổi tuỳ vào biểu hiện đi kèm như: tăng tiết nước bọt, chán ăn, khô miệng, khát nước, đau bụng nhiều, ợ nóng nhiều, khó ngủ…do thầy thuốc quyết định điều chỉnh thuốc phù hợp.
Vì chứng khó tiêu hoá có liên quan đến rất nhiều loại bệnh từ thực quản đến ruột và các cơ quan như gan mật, tuỵ, nên nếu sử dụng thuốc vài tuần không thuyên giảm người bệnh cần được thực hiện thêm các kỹ thuật cận lâm sàng: nội soi dạ dày, siêu âm, xét nghiệm máu – phân, đôi khi cần chụp cắt lớp, cộng hưởng từ…đặc biệt ở người cao tuổi và gầy nhanh nên sớm đến các cơ sở khám bệnh chuyên khoa để có biện pháp điều trị thích hợp nhất.
Gần đây, một loại bệnh liên quan đến chứng khó tiêu đang rất phổ biến gây nhiều lo lắng vì phải điều trị kéo dài, dễ tái nhiễm và có một số phản ứng ngoại ý khi uống thuốc là viêm dạ dày có nhiễm Helicobacter pylori . Đây là bệnh cần quan tâm nhưng không nên quá lo lắng, sơ hãi. Thực tế, vi khuẫn HP đa số bị diệt bởi kết hợp một số kháng sinh với nhau và chỉ một số nhỏ người bệnh bị kháng thuốc hay dị ứng thuốc.. Cần tuân thủ uống thuốc đủ liều và thực hiện vệ sinh ăn uống, rửa tay, làm sạch ly chén khi dùng chung.
Hiện nay, các thầy thuốc YDCT trong và ngoài nước đã và đang nghiên cứu nhằm tìm các dược liệu có thể hỗ trợ kìm hoặc diệt vi khuẩn HP kháng thuốc kháng sinh hay thường xuyên tái nhiễm. Các dược liệu như: Tỏi, Trà xanh, Nghệ, Chè dây, Riềng, rau Bạc hà (có tinh dầu menthol), Quế…được ghi nhận có tác dụng diệt HP và hứa hẹn có thêm vũ khí mới giúp chữa trị loại vi khuẩn này.
Bệnh vảy nến là một bệnh tự miễn (do hệ miễn dịch tăng hoạt động và tấn công vào các tổ chức bình thường của cơ thể, chủ yếu là da) mạn tính chiếm khoảng 3 – 4% dân số của Mỹ, bệnh chủ yếu xảy ra ở người lớn, trẻ con có tỉ lệ bệnh thấp (JAMA Dermatology). Theo Sở y tế quốc gia thuộc Vương quốc Anh, khoảng 2% dân Anh bị bệnh vảy nến, tuổi thường gặp 11 đến 45 tuổi, tuy nhiên các lứa tuổi khác cũng có thể mắc bệnh.
– Da xuất hiện các mảng đỏ, dày, sần sùi, tróc vảy. Vị trí thường gặp là nơi mặt duỗi của các khớp (khuỷu, gối), da đầu, mặt, tai, thắt lưng, lòng bàn tay, bàn chân, các nếp gấp ở bộ phận sinh dục, mông và móng tay – chân.
– Khoảng 10 – 20% người bệnh vảy nến có nguy cơ bị viêm khớp vảy nến.
– Bệnh vảy nến không lây, nhưng về mặt xã hội người bệnh thường bị mặc cảm trong giao tiếp, quan hệ xã hội, đặc biệt đối với thể bệnh nặng và có sự liên quan đến chứng trầm cảm ở một số người bệnh.
– Gần đây, các chuyên gia còn cho biết người bệnh vảy nến có nguy cơ mắc thêm bệnh tim mạch, đái tháo đường.
– Nguyên nhân chính xác của bệnh không được biết.
– Hầu hết các chuyên gia tin rằng có yếu tố di truyền và bị thúc đẩy bởi uống nhiều rượu, hút thuốc lá quá nhiều, stress tinh thần, và sau khi ngưng đột ngột thuốc corticoid dùng đường toàn thân.
Tuỳ theo biểu hiện của bệnh mà chia ra các thể: vảy nến tróc vảy (chiếm 80 – 90%, da bong vảy từng mảng trắng), vảy nến nếp gấp (đặc biệt ở vùng nách, bộ phận sinh dục, nếp dưới vù, nếp mông…), vảy nến bóng nước, vảy nến mụn mủ, vảy nến đỏ da…
Tiền căn gia đình, theo thống kê có khoảng 30% người bệnh có thành viên trong gia đình bị vảy nến (có 3 gen liên quan: SLC9A3R1, NAT9 và RAPTOR), Bệnh nhân HIV, nhiễm khuẩn tái phát nhiều lần (viêm họng do streptococcus), stress tâm thần kinh, thừa cân – béo phì, hút thuốc lá kéo dài, một số thuốc tân dược trị bệnh tim mạch (thuốc ức chế bêta, ức chế men chuyển), thuốc chống sốt rét, sử dụng liều cao và ngưng đột ngột chất corticoids có thể gây bệnh vảy nến…
– Bệnh chủ yếu được thầy thuốc chẩn đoán dựa vào biểu hiện bên ngoài và diễn tiến của bệnh, hiện không có một xét nghiệm đặc hiệu nào sử dụng cho chẩn đoán, một số nước có dùng kỹ thuật sinh thiết da.
– Một số xét nghiệm máu nhận biết diễn tiến nặng của quá trình viêm: tốc độ máu lắng, C-RP, x-quang khớp (viêm khớp vảy nến)…
Hiện nay, y học chưa thể điều trị khỏi hẳn bệnh vảy nến. Tuy nhiên, mục tiêu điều trị nhằm: hạn chế quá trình viêm, chống nhiễm trùng (nếu có), giảm bong tróc vảy, và làm mềm da.
Điều trị theo quy ước của Y học hiện đại: chọn thuốc dựa vào phân loại bệnh, mức độ nặng và vùng da nào của cơ thể bị ảnh hưởng. Các thuốc được sử dụng phối hợp:
Vì bệnh vảy nến là một biểu hiện ngoài da của một bệnh toàn thân, nên điều trị cần một liệu pháp tổng hợp từ sử dụng thuốc và không dùng thuốc:
– Chế độ ăn: hạn chế thức ăn gây tăng quá trình viêm mạn tính như: thức ăn quá ngọt, thịt đỏ, các loại mắm, mỡ động vật, thức ăn chế biến cầu kỳ. Tăng cường rau xanh, củ, trái cây; uống đủ nước tinh khiết hoặc nước chế biến từ một số loại dược liệu quanh nhà: Rễ tranh, Mã đề, Râu Ngô, Rau má…có thể bổ sung vitamin và nguyên tố vi lượng: acid folic (1mg/ngày), Kẻm (25mg/ngày), Selen, Omega – 3…
– Tập thể dục vừa sức: Dưỡng sinh, Yoga, Thái cực quyền, Thiền định, ngủ đủ giờ, kiểm soát stress… nhằm tăng sức đề kháng,
– Sử dụng thuốc: tuỳ giai đoạn, thể bệnh và tổng trạng của người bệnh sẽ chọn thuốc phù hợp:
a. Thể bệnh với da đỏ nhiều (tăng quá trình viêm, đông y gọi là nhiệt) mụn nước, rỉ dịch (tăng xuất tiết, đông y gọi là thấp), ngứa (dị ứng, chứng phong của đông y):
Chọn mỗi nhóm từ 1 đến 2 vị dược liệu trên, nấu với nước uống.
b. Thể bệnh với đỏ da, ngứa, da khô, tróc vảy (thiếu nước, chứng táo):
c. Thể bệnh lâu ngày, cơ thể suy nhược: Hà thủ ô đỏ, Hoàng kỳ, Nhân sâm, Đảng âm, Đinh lăng, Bạch truật, Đương quy…
Tuỳ tình trạng đáp ứng thuốc của người bệnh, YHCT lưu ý sử dụng thêm các thuốc thúc đẩy tuần hoàn (Hoạt huyết: Đan sâm, Kê huyết đằng, Cỏ mực, Xuyên khung) hoặc thuốc ổn định tâm thần kinh (Lạc tiên, Tâm sen, Thảo quyết minh, Bình vôi)…
d. Viêm khớp vảy nến: Độc hoạt, Khương hoạt, Tục đoạn, Cỏ sướt, Tang ký sinh (10 – 15g) …
Đây là bệnh có nguyên nhân chưa xác định và là bệnh tự miễn nên dự phòng rất khó khăn. Tuy nhiên, cần tránh các yếu tố nguy cơ biết được như:
– Điều chỉnh lối sống hợp lý: không hút thuốc lá, hạn chế rượu bia, ăn uống hợp lý (tăng cường rau xanh, trái cây, uống đủ nước), thường xuyên tập thể dục, hạn chế tác hại của môi trường (ô nhiễm không khí, hoá độc hại, mỹ phẩm),
– Sử dụng một số nước uống từ cây rau làm thuốc có tác dụng chống gốc tự do (chất làm tổn hại tế bào) như: nước xay Rau má, Bơ, Cà rốt, Táo…
– Rèn luyện tinh thần, thể lực, kiểm soát stress…
– Sử dụng thuốc khi có ý kiến của thầy thuốc.
– Gần đây, có nhiều thông tin trên mạng giới thiệu một số cây thuốc Nam có tác dụng trị bệnh vảy nến như: ăn lá Hoàn ngọc, lá Lược vàng… có hiệu quả đối với vài người. Tuy nhiên, cơ thể mỗi người mỗi khác, thể bệnh này cần thuốc này, thuốc khác cho thể bệnh khác. Không thể chỉ có một cây thuốc hoặc một bài thuốc cố định có hiệu quả cho tất cả mọi người.
– Khi quyết định dùng thuốc cần tham khảo ý kiến thầy thuốc chuyên khoa và lắng nghe đáp ứng của cơ thể.
– Đối với người bệnh vảy nến luôn cần sự động viên và chia sẻ của người thân, bạn bè. Bản thân người bệnh cần kiên trì, lựa chọn phương pháp điều trị khoa học, hạn chế buồn chán, bi quan vì “trạng thái tâm lý tiêu cực sẽ luôn gây nặng thêm tình trạng bệnh hiện có”.
Ngày 18/10/2015 vừa qua Đoàn Y, Bác sĩ của Viện Y Dược Học Dân Tộc TP.Hồ Chí Minh (với sự hỗ trợ của Ngân hàng thương mại cổ phần VietComBank – Chi nhánh TP.HCM) cùng Đoàn Thanh niên và Hội người cao tuổi thị trấn Hóc Môn đã tổ chức chương trình khám bệnh, tư vấn sức khỏe miễn phí và tặng quà cho người cao tuổi tại thị trấn Hóc Môn, huyện Hóc Môn, TP.Hồ Chí Minh.Đây là chương trình hưởng ứng “Tháng hành động vì người cao tuổi Việt Nam” năm 2015 của Viện Y Dược Học Dân Tộc
Đoàn y, bác sĩ của Viện Y Dược học dân tộc gồm 27 người do ThS.DS. Hà Văn Hùng – Phó viện trưởng làm trưởng đoàn đã khám bệnh, cấp phát thuốc miễn phí và trao tặng 165 phần quà cho 165 người cao tuổi tại địa phương. Ngoài ra, đoàn y bác sĩ còn trực tiếp tư vấn điều trị theo đúng chuyên khoa cho các đối tượng, hướng dẫn người dân các kiến thức cơ bản về vệ sinh phòng bệnh, bảo vệ sức khỏe cho bản thân, gia đình và cộng đồng.
Đại diện Ban Giám đốc Viện, ThS.DS. Hà Văn Hùng đã gửi lời cảm ơn đến chính quyền, đoàn thể và nhân dân thị trấn Hóc Môn đã hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi để hoàn thành chuyến đi đầy ý nghĩa này.
Sau khi kết thúc chương trình, chính quyền, đoàn thể và nhân dân thị trấn Hóc Môn đã bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đối với sự quan tâm của lãnh đạo, y bác sĩ Viện Y Dược học dân tộc đối với người dân tại địa phương.
Một số hình ảnh hoạt động./.
Người dân sử dụng cây nở ngày đất như thần dược, nhưng trong phòng thí nghiệm chuột thí nghiệm đều lăn ra chết khi uống nước sắc từ cây thuốc này.
Theo TS Trương Thị Ngọc Lan, đối với thử nghiệm độc tính cấp, động vật thí nghiệm được chọn là chuột nhắt trắng vì đây là loài nhạy cảm, có quá trình chuyển hóa gần giống ở người. Khi kết quả nghiên cứu trên chuột hoàn chỉnh, sẽ tiến hành nghiên cứu tác dụng của thuốc trên người.
Từ liều nghiên cứu trên động vật thí nghiệm, bác sĩ sẽ suy ra liều dùng điều trị trên người cho hợp lý. Tuy nhiên, tất cả phải dựa trên cơ sở khoa học hoặc chứng minh thực tế thông qua các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng được công bố chính thức, từ đó mới áp dụng điều trị.
Chuột chết khi tăng liều gấp 6 – 10 lần
TS-BS Trương Thị Ngọc Lan, Phó trưởng phòng Đào tạo – nghiên cứu khoa học – chỉ đạo tuyến, Viện Y dược học dân tộc TP.HCM kể: “Khoảng tháng 11/2014, tại TP.HCM rộ lên phong trào “săn lùng” sử dụng cây nở ngày đất. Giá cây tăng mạnh. Thậm chí, một số bệnh nhân đang điều trị tại Viện có ý định chuyển sang uống cây nở ngày đất để trị bệnh gút, tiểu đường, cao huyết áp…”.
Theo TS-BS Trương Thị Ngọc Lan, trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu ghi nhận tác dụng trên thực nghiệm của cây nở ngày đất. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu công bố về tác dụng của cây nở ngày đất mọc tại Việt Nam, nhất là về tác dụng và độc chất của cây.
Trước thực trạng người dân đua nhau trị bệnh theo phong trào mà không rõ hiệu quả của “loại thuốc” này, Viện nhanh chóng vào cuộc thực hiện “Khảo sát độc tính của cây nở ngày đất trên thực nghiệm tại Viện Y dược học dân tộc TP.HCM”.
“Viện đã mua cây nở ngày đất, loại có bông màu trắng, thân và lá màu xanh được bán từ các xe đẩy trên đường phố và các cơ sở buôn bán Đông dược tại thị trường TP.HCM để tiến hành nghiên cứu độc tính. Đối tượng được nghiên cứu trong phòng thí nghiệm là chuột nhắt trắng được chia thành hai nhóm, một nhóm uống nước sắc cây nở ngày đất (bao gồm cả rễ cây) dạng tươi và nhóm còn lại uống dạng khô.
Liều nước sắc dân gian thường dùng trên người là 200g/ngày đối với cây tươi và 100g/ngày đối với cây khô. Lúc đầu, chúng tôi thử tăng liều gấp 10 lần so với liều thông dụng thì hàng loạt chuột đều chết nhanh chóng. Sau đó, hạ liều thử nghiệm xuống còn gấp 6 liều thông thường thì hàng loạt chuột thí nghiệm xảy ra tình trạng co giật và chết sau 30-45 phút” – ThS Nguyễn Thị Diệu, Phó trưởng khoa Thực nghiệm, Viện Y dược học dân tộc TP.HCM cho biết.
BS CKI Huỳnh Nguyễn Lộc, Viện trưởng Viện Y dược học dân tộc TP.HCM khuyến cáo: việc xác định độc tính cấp của thuốc trên động vật thí nghiệm nhằm đánh giá độc tính và độ an toàn của thuốc đó, là cơ sở để xác định chỉ số điều trị – một thông số rất quan trọng để xem xét có nên đưa thuốc đó vào dùng trên người hay không.
Nếu loài cây có độc nhưng có tác dụng điều trị thì bác sĩ sẽ chỉ định người bệnh dùng thuốc với hàm lượng không gây độc, nhưng đạt hiệu quả nhất và nên dùng bộ phận nào của cây hay dùng nguyên cây. Kết quả nghiên cứu này cho thấy, cây nở ngày đất có độc tính chứ không phải hoàn toàn vô hại.
Điều này đã được ghi nhận trong các nghiên cứu trên thế giới cũng như Cục Quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã cảnh báo, cây nở ngày đất thuộc nhóm thực vật có độc tính. Viện đang tiếp tục nghiên cứu để làm rõ hơn vấn đề trên cũng như việc sử dụng cây nở ngày đất trong thời gian dài.
Nhiều nơi vẫn “sốt” cây nở ngày đất
Dù phong trào mua bán cây nở ngày đất không còn nhộn nhịp như thời điểm tháng 11/2014, nhưng nhu cầu sử dụng tại TP.HCM vẫn tiếp tục tăng cao. Chiều 11/10, nhiều người dân bán trái cây lẫn cây nở ngày đất đứng xếp lớp dọc cuối đoạn đường Trường Chinh, Q.Tân Bình. Khi tôi hỏi mua, chị An – một người bán cây nở ngày đất tại đây hối hả:
“Một ký 40.000đ. Anh đem về sắc nước uống, phơi khô hay uống tươi đều được”. Khi chúng tôi hỏi cây này có trị hết bệnh không hay chỉ là tin đồn, chị An trố mắt: “Lúc trước, nhiều người hỏi mua, giá một ký lên đến 80.000đ nhưng không có hàng để bán, giờ rẻ rồi đó. Nhiều người uống điều trị bệnh gút, đau khớp, tiểu đường, cao huyết áp, ung thư… Ngày nào tôi cũng bán 20 – 30 ký”.
Tương tự, chủ một xe đẩy bán cây nở ngày đất trên đường Điện Biên Phủ, Q.Bình Thạnh cho hay: “Cây nở ngày đất chữa đau lưng, nhức mỏi, khớp gối, tiểu đường, bệnh gút… Giá một ký là 55.000đ, nửa ký là 30.000đ”.
Thấy khách tỏ ra hời hợt, chủ xe đẩy “kích cầu”: “Lúc trước báo chí đăng rần rần về hiệu quả của cây nở ngày đất chữa nhiều bệnh đó. Vì nhiều người biết công dụng của nó rồi nên tôi không đem theo mấy tờ báo, chứ lúc trước bán, tôi dán sẵn mấy tờ báo trước xe cho khách xem”.
BS CKI Huỳnh Nguyễn Lộc chia sẻ, Từ điển cây thuốc Việt Nam (Võ Văn Chi, NXB Y học 1997 tập 2, trang 877) cho biết:
“Theo dân gian, rễ cây nở ngày đất sắc uống trị ho, cảm cúm, kích thích tiêu hóa tốt, loại bỏ căng thẳng mệt mỏi; toàn cây sắc uống có tác dụng tiêu độc. Tuy nhiên, chưa có tài liệu nào nghiên cứu về tác dụng của cây nở ngày đất, đặc biệt là đối với bệnh gút và tiểu đường. Trong lúc chờ nghiên cứu, người dân không nên tự ý sử dụng cây nở ngày đất mà cần có chỉ định của bác sĩ. Tốt nhất, khi có vấn đề về sức khỏe nên đến khám, điều trị và được theo dõi tại các cơ sở khám chữa bệnh có uy tín”.
Cùng quan điểm trên, BS Trần Văn Năm – nguyên Viện phó Viện Y dược học dân tộc TP.HCM cho biết, thực tế cây nở ngày đất có rất nhiều loài như: globosa, celosiosides, rubra… Theo một số tài liệu nước ngoài, cây nở ngày đất có chứa chất fl avones, fl avonoids, glycosides, steroids… với tác dụng hạ sốt, kháng viêm, hạn chế phát triển của một số loại vi khuẩn, lợi tiểu, chống oxy hóa.
Đây là một loại cây có dược tính, có thể dùng làm thuốc chữa một số bệnh lý mạn tính. Tuy nhiên, giới thầy thuốc Đông y chỉ mới sử dụng theo kinh nghiệm. Cây chưa được nghiên cứu về độc tính, tác dụng dược lý lâm sàng, chỉ định điều trị đối với hai loại bệnh tiểu đường và gút.
Tiểu đường và gút thuộc loại bệnh rối loạn chuyển hóa chất đường và đạm nên nguyên tắc điều trị là tuân thủ chế độ ăn khoa học, tập luyện hợp lý và điều trị theo hướng dẫn của thầy thuốc. Không nên dựa vào tin đồn, lời mách bảo của những người không có chuyên môn, tùy tiện sử dụng. Việc dùng cây này khi chưa xác định được liều lượng, sự tương tác với các thuốc khác… có thể xảy ra tai biến.
Hoàng Sa
Viện Y dược học dân tộc nên công bố rộng rãi kết quả nghiên cứu
Một bác sĩ Đông y cho rằng, trong nghiên cứu, bước đầu tiên để các nhà khoa học thực hiện thường sử dụng liều gây chết trung bình với khoảng 50% súc vật thí nghiệm, từ đó tính ra liều sử dụng an toàn.
Tuy nhiên, điều đáng lưu ý, với nghiên cứu này, chứng tỏ trong cây nở ngày đất có độc khi sử dụng liều cao. Sau nghiên cứu này, Viện Y dược học dân tộc TP.HCM nên công bố rộng rãi để nhiều nhà khoa học khác có thể nhập cuộc nghiên cứu các bước tiếp theo.
Nhà khoa học bắt đầu nghiên cứu hạ dần liều đến ngưỡng an toàn, rồi mới thử tác dụng dược lý xem cây nở ngày đất có hạ được axít uric chữa bệnh gút hay hạ lượng đường trong điều trị bệnh tiểu đường hay không.
Hiện nay, giới Đông y đang rất nghi ngờ công dụng chữa bệnh gút và tiểu đường của cây nở ngày đất. Nếu như cây nở ngày đất chỉ điều trị được bệnh gút và tiểu đường ở liều cao thì cũng vô nghĩa vì liều cao sẽ gây chết người. Tuy nhiên, cần có thời gian nghiên cứu thêm về độc tính theo giai đoạn bán trường diễn (kéo dài hai tháng) rồi trường diễn (ba-sáu tháng) trên chuột.