Trang chủ Blog Trang 144

Kết hợp Đông – Tây y trong điều trị bệnh đái tháo đường type 2

Ảnh minh họa.

Đái tháo đường là một bệnh mãn tính gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm nếu không được chẩn đoán sớm và điều trị tích cực. Hiện nay đã có nhiều tiến bộ trong điều trị bệnh, trong đó xu hướng kết hợp giữa đông y và tây y nhằm làm tăng hiệu quả, giảm chi phí điều trị đang ngày được chú trọng.

Đái tháo đường là gì?

            Đái tháo đường ( ĐTĐ ) là nhóm của các bệnh lý chuyển hoá, có đặc điểm là tăng đường huyết do sự thiếu hụt về tiết Insulin, về tác động của Insulin hoặc cả hai. Tăng đường huyết mạn tính kéo dài kéo theo những tổn thương, rối loạn chức năng, suy giảm các cơ quan khác nhau trong cơ thể, đặc biệt là mắt, thận, thần kinh, tim và mạch máu.

            ĐTĐ thường được chia làm hai nhóm chủ yếu là ĐTĐ type 1 và ĐTĐ type 2, trong đó bệnh ĐTĐ type 2 chiếm đa số ( 85% -90% ).

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Tại sao ĐTĐ được xem là một thách thức của thế giới trong thế kỷ 21?

            Hiện nay số người mắc bệnh ĐTĐ trên toàn thế giới xấp xỉ 300 triệu người trong đó tốc độ phát triển nhanh nhất là ở các nước đang phát triển. ĐTĐ cùng với bệnh lý tim mạch và ung thư là ba nguyên nhân gây tử vong hàng đầu tại Mỹ

            Nguyên nhân gây tử vong do ĐTĐ thường gặp là bệnh mạch vành, bệnh mạch máu não, nhiễm trùng, suy thận mãn….Ngoài ra ĐTĐ còn có thể ảnh hưởng lên mắt gây mù mắt…

            ĐTĐ không chỉ gây tăng chi phí cho việc điều trị của người bệnh mà còn ảnh hưởng đến xã hội thông qua những sản phẩm lao động bị giảm sút do nghỉ ốm, do tàn phế, do nghỉ hưu sớm, hoặc chết sớm vì bệnh tật. Ngoài ra ĐTĐ còn gây ra những gánh nặng về mặt tâm lý như stress, sự lo lắng của bản thân người bệnh, thân nhân họ và cả cộng đồng về tất cả các khía cạnh có liên quan đến bệnh.

Những ai cần được đi kiểm tra để phát hiện sớm bệnh ?

          Bệnh ĐTĐ type 2 thường được phát hiện một cách tình cờ hoặc khi bệnh nhân có những biểu hiện của các biến chứng do bệnh ĐTĐ gây ra như: tê 2 chi dưới, nhiễm nấm ở bộ phận sinh dục, nhiễm trùng ở da, mờ mắt, đau thắt ngực, tai biến mạch máu não…Chỉ một số ít trường hợp bệnh được phát hiện do có biểu hiện của triệu chứng tăng đường huyết: ăn nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều, sụt cân nhiều.

            Do đó những đối tượng như sau cần được kiểm tra đường huyết để phát hiện bệnh sớm:

– Tuổi trên 55, là yếu tố nguy cơ chung, nên tiến hành sàng lọc cho tất cả những người ≥ 55 tuổi.

– Tuổi từ 40-45, kèm theo một yếu tố nguy cơ mô tả dưới nay.

– Tuổi từ 35-40 tuổi kèm theo hai trong số các yếu tố nguy cơ được mô tả dưới đây:

+ Tăng huyết áp, HA ≥ 140/ 90 mmHg

+ Những người béo phì hoặc dư cân ( BMI ≥ 23 )

+ Có liên quan ruột thịt với người mắc bệnh ĐTĐ ( thế hệ cận kề )

+ Phụ nữ lứa tuổi ở vào giai đoạn quanh mãn kinh.

+ Phụ nữ có tiền sử thai sản đặc biệt như được chẩn đoán ĐTĐ thai kỳ; hoặc có tiền sử sinh con to, cân nặng lúc sinh > 4000g. Với người VN, một số nghiên cứu cho thấy nếu cân nặng của con ≥ 3600g đã phải coi là yếu tố nguy cơ mắc bệnh.

+ Những người đã từng được chẩn đoán rối loạn đường huyết lúc đói, hay rối loạn dung nạp glucose; người có các rối loạn chuyển hóa khác như rối loạn chuyển hóa lipid, rối loạn chuyển hóa acid uric, người có microalbumin niệu dương tính….

+ Người có nghề nghiệp tĩnh tại, ít hoạt động thể lực, có những thay đổi đột ngột về môi trường sống…

Người bệnh ĐTĐ type 2 cần được điều trị như thế nào?

            Đối với mỗi người bệnh ĐTĐ điều có một chế độ điều trị riêng biệt để phù hợp với mức độ bệnh, đặc điểm sinh hoạt của mỗi người bệnh. Việc điều trị cũng cần phải toàn diện. Bên cạnh việc dùng thuốc cần phải có chế độ dinh dưỡng và tập luyện thể dục phù hợp với tình trạng bệnh và thuận tiện cho việc tuân thủ.

            Đối với người bệnh ĐTĐ, nên kiêng hay hạn chế tối đa các loại đường hấp thu nhanh ( mức, nước ngot, bánh ngọt, trái cây khô …), nên ăn nhiều rau xanh sẽ làm giảm sự hấp thu đường và cholesterol sau ăn, giúp tránh táo bón. Đối với việc tập luyện, bệnh nhân nên tập các môn rèn luyện sự dẻo dai bền bỉ như đi bộ, di xe đạp, bơi lội, các bài tập dưỡng sinh,… nên tránh các môn đòi hỏi thể lực cao như cử tạ…. Bài tập nên có cường độ nhẹ nhàng lúc đầu và tăng dần theo thời gian. Tránh quá sức, và phải có sự theo dõi của thầy thuốc. Việc tuân thủ chế độ ăn và tập luyên đúng cách sẽ góp phần quan trọng trong việc kiểm soát đường huyết.

            Ngày nay các thầy thuốc Đông Y khi điều trị bệnh nhân ĐTĐ type 2 sẽ tùy thuộc tình trạng của người bệnh mà quyết định chỉ dùng thuốc Tây y  ( Glucophage, Diamicron, Amaryl, Mixtard…), hay thuốc Đông y ( Khổ qua, Lục vị tri bá, dây thìa canh…), hay kết hợp cả hai loại thuốc Đông y và Tây y nhằm làm tăng tác dụng hạ đường huyết, giảm các tác dụng phụ, giảm chi phí điều trị…Bên cạnh việc dùng các thang thuốc kinh điển ( Lục vị tri bá…) có thể gây bất lợi cho người sử dụng do phải sắc nấu, không tiện nếu phải đem xa… , các thuốc YHCT ngày nay còn có các dạng thuốc được bào chế theo phương pháp hiện đại ( dạng viên con nhộng, viên tròn… ) nhằm làm tăng tác dụng hạ đường huyết và dễ dàng sử dụng cho bệnh nhân hơn.

            Việc điều trị ĐTĐ type 2 bằng các thuốc có nguồn gốc thiên nhiên ngoài tác dụng làm hạ đường huyết, còn có thể có một số tác dụng có ích khác trên người bệnh mà trong quá trình điều trị chúng tôi ghi nhận được như: giảm triệu chứng táo bón, giảm cảm giác nóng trong người, hồi hộp, đánh trống ngực, tiểu đêm, cải thiện giấc ngủ…

ThS. BS. Lê Ngọc Thanh – Viện Y Dược Học Dân Tộc thành phố Hồ Chí Minh.
(Trích từ trang thông tin điện tử Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh).

Món ăn hỗ trợ điều trị bệnh đái tháo đường

Mướp đắng hay còn gọi là khổ qua.

Trong những năm gần đây, với sự phát triển của y học, con người ngày càng có nhiều sự lựa chọn về thuốc cho việc điều trị bệnh đái tháo đường nhằm hạn chế các biến chứng của bệnh và kéo dài cuộc sống. Bên cạnh việc dùng thuốc, việc tập luyện và ăn uống đúng cách cũng góp phần làm tăng hiệu quả điều trị. Trong dân gian có nhiều loại thực phẩm vừa được dùng làm các món ăn ngon vừa có tác dụng hỗ trợ điều trị bệnh đái tháo đường. Dưới đây là một vài món ăn thường được sử dụng:

1. Củ cà rốt tươi vừa đủ, gạo tẻ 60g, nấu cháo ăn chia làm 2 buổi sáng và tối. Dùng cho những người bệnh đái tháo đường có triệu chứng đói ăn nhiều. Các nghiên cứu gần đây cho thấy trong củ cà rốt có chất insulin thực vật, có khả năng làm giảm 1/3 đường của máu.

2. Món ốc bung củ chuối (thành phần: ốc bươu hay ốc nhồi, thịt lợn ba chỉ, đậu phụ rán, củ chuối hột non, nghệ giã nhỏ vắt lấy nước, quả khế, cơm mẻ…). Dùng ốc ngâm trong nước gạo cho ra hết nhờn, rửa sạch, khều lấy đầu, bỏ ruột. Thịt lợn cắt mỏng. Ướp ốc và thịt với cơm mẻ và nước nghệ. Củ chuối thái mỏng, ngâm nước cho ra hết nhựa rồi cho vào nồi ninh nhừ. Nấu chung các thứ, nêm mắm muối. Theo quan điểm Đông y thì ốc có vị nhạt, tính hàn, không độc dùng để trừ thấp nhiệt, tiêu thũng, thông lâm (sỏi). Con ốc và nước ốc dùng để giải độc rượu, trị chứng tiêu khát (đái tháo đường). Củ chuối hột có tính chát và thu liễm, dùng để trị bệnh tiêu khát. Thịt lợn và đậu phụ là những chất protid cần dùng trong thực đơn của người đái tháo đường. Mùi vị của món ăn này rất đặc biệt, làm giảm cảm giác khát nước, đói bụng của người đái tháo đường.

3. Củ mài 30g, bí đao 100g, lá sen 60g. Lá sen sắc lấy nước, bỏ cái, nấu với củ mài và bí đao thành cháo, ăn ngày một lần. Củ mài (tên thuốc là Hoài sơn) là một vị thuốc có vị ngọt, tính bình có nhiều tác dụng, một trong số đó là dùng để chữa chứng tiêu khát. Các nghiên cứu ở Nhật Bản cho thấy củ mài có khả năng làm giảm đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường. Trong khi đó lá sen và bí đao là những thực phẩm có tác dụng thanh nhiệt, giảm khát rất tốt. Ngoài ra lá sen còn có tác dụng an thần, chữa mất ngủ.

4. Củ mài 60g, tụy heo 1 cái, Sinh địa 30g. Sắc tụy heo trước 30 phút rồi cho thuốc vào cùng sắc. Uống nước và ăn thịt có thể thay cho bữa ăn, dùng liên tục từ 15-20 ngày. Theo Đông y, Sinh địa là một trong những vị thuốc thường được sử dụng do có nhiều công dụng khác nhau như thanh nhiệt, bổ huyết… Các nghiên cứu dược lý cho thấy nước sắc sinh địa có tác dụng kháng viêm, giảm đường-huyết, giảm huyết áp… Kinh nghiệm từ xưa hay sử dụng tụy heo vừa là một món ăn vừa là một vị thuốc dùng để chữa chứng tiêu khát khi cùng phối hợp các loại thức ăn khác như xào với củ cải, hẹ, mướp đắng… Một số thử nghiệm ở Nga gần đây cho thấy tế bào tụy tạng heo có khả năng giúp bệnh nhân đái tháo đường sản xuất được insulin.
 

5. Hoàng kỳ 30g, Củ mài 60g. Hoàng kỳ sắc còn 300ml bỏ xác, cho bột Củ mài vào trộn đều nấu cháo ăn 1-2 lần mỗi ngày. Hoàng kỳ là một vị thuốc có vị ngọt tính ấm, có tác dụng bổ khí. Tác dụng dược lý của Hoàng kỳ là làm tăng cường miễn dịch của cơ thể, thúc đẩy quá trình chuyển hóa của cơ thể, hạ áp…

6. Dùng quả mướp đắng tươi từ 1-2 trái nấu canh ăn hằng ngày. Có thể nấu chung với thịt heo để dễ ăn. Ngoài ra có thể dùng mướp đắng thái mỏng, sấy khô, hãm uống như nước trà. Mướp đắng có vị đắng tính lạnh, có tác dụng trừ nhiệt, làm sáng mắt, giải phiền khát… Ở nhiều nước trong khu vực (Philippines, Trung Quốc, Việt Nam…), mướp đắng được sử dụng như một vị thuốc để điều trị bệnh đái tháo đường rất hiệu quả. Ngoài ra các nghiên cứu của Nhật Bản còn cho thấy mướp đắng có khả năng hạn chế sự phát triển của tế bào ung thư và kéo dài tuổi thọ của người bệnh ung thư.

Mướp đắng hay còn gọi là khổ qua.
Mướp đắng hay còn gọi là khổ qua.

Trên đây là một vài món ăn thông dụng có thể góp phần hỗ trợ điều trị bệnh đái tháo đường. Chế độ ăn sẽ góp phần quan trọng trong hỗ trợ điều trị bệnh đái tháo đường, có một số trường hợp chỉ với việc điều chỉnh chế độ ăn, tập luyện đúng cách cũng đã có thể ổn định được đường-huyết, nhất là đối với những trường hợp mới mắc, mức độ nhẹ, chưa có các biến chứng nguy hiểm.

ThS. BS. Lê Ngọc Thanh – Viện Y Dược Học Dân Tộc thành phố Hồ Chí Minh.
Trích từ trang thông tin điện tử Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh (http://www.bvdaihoc.com.vn/Home/ViewDetail/544#maincontent)

Sừng tê giác không phải là thần dược

Sừng tê giác = móng tay + quá nhiều tiền?

         “Giá tiền 1 kg sừng tê giác dạng bột ở Việt Nam là khoảng 60.000 USD, tuy nhiên giá trị thật sự cũng không hơn gì một …cái móng tay người vì cấu tạo chủ yếu của sừng tê chỉ là chất sừng như tóc và móng tay người không hơn không kém” Đó là kết luận của Tổ chức Các loài vật hoang dã Quốc tế (CWI) đưa ra mới đây. Cũng theo tổ chức này, chỉ còn khoảng 26.000 con tê giác hiện đang sinh sống ở Châu Phi và Châu Á, trong đó chỉ còn vài trăm con còn sống ở Indonesia (Java và Sumatra). Theo Quỹ Quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF), số cá thể tê giác bị bắn chết ở Nam Phi đã lên đến 3000% (!) so với năm 2007. Năm 2011, cá thể tê giác cuối cùng ở Việt Nam được tuyên bố là đã chết trong vườn quốc gia Cát Tiên. Ở Việt Nam, WWF và Mạng lưới giám sát buôn bán động vật và thực vật hoang dã Quốc tế (TRAFFIC) đã phối hợp mở Chiến dịch chống buôn lậu sừng tê giác vào Việt Nam từ tháng 7.2012 đến tháng 6.2013 với 2 mục tiêu chính là thông qua cam kết chống buôn bán trái phép sừng tê giác và thông tin đại chúng về tác dụng thật của sừng tê giác, từ đó tiến tới chấm dứt sử dụng các sản phẩm từ sừng tê giác. Tuy vậy, việc thực hiện chưa đủ mạnh để có thể ngăn chặn triệt để, đồng thời nhận thức của người dân về bảo tồn thiên nhiên, giá trị của đa dạng sinh học, hiểu biết các văn bản pháp luật vẫn còn rất hạn chế. Và quan trọng hơn là thói quen sử dụng các sản phẩm từ động vật hoang dã, đặc biệt là sự cuồng tín hoang đường về một loại thần dược chữa được những bệnh hiểm nghèo (ung thư) là lý do khiến việc buôn bán sừng tê giác trở thành một hoạt động siêu lợi nhuận. Vậy ta hãy xem qua những tác dụng của sừng tê để thấy có đáng để loài vật này bị săn lung gắt gao đến thế không.

1

Vì hiếm nên quí?

Thật ra không phải đến bây giờ sừng tê giác mới trở thành dược phẫm quí hiếm. Thời nhà Hán ở Trung Quốc, tê giác đã bị giết rất nhiều để lấy sừng chữa bệnh và làm vật phẩm triều cống. dần dần, nó còn trở thành một vật trang sức quí giá như làm cán dao găm, chén uống rượu,… Theo sự giao thương từ con đường tơ lụa nổi tiếng, các lái buôn nhập sừng tê từ Sumatra để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của Trung Quốc dùng chữa bệnh sốt nhiệt đới. Có lẽ đây là phương thuốc hiệu nghiệm vào thời đó nên đã được ghi chép vào các y văn cổ, điển hình là “Bản Thảo Cương Mục” của danh y Lý Thời Trân. Theo thời gian, người ta “phát hiện” thêm nhiều tác dụng chữa bệnh khác của sừng tê, mà nổii bật là tác dụng cường dương (!) Tuy vậy, điều trớ trêu là cho đến nay vẫn chưa có tài liệu nào ở Trung Quốc từ cổ chi kim đề cập đến việc dùng sừng tê như một phương thuốc làm tăng khả năng tình dục. Người ta cho rằng đây chỉ là lời đồn thổi do các lái buôn tạo ra để tiêu thụ được mặt hàng đặc biệt này.

Sừng tê giác theo y học

Theo yhct, sừng tê giác có vị đắng, mặn, tính lạnh, không độc, vào 2 kinh Tâm và Can. Có tác dụng thanh huyết nhiệt, giải độc, an thần, giảm đau, tăng cường sức khoẻ. Yhct dung chữa hôn mê, co giật và các chứng xuất huyết do huyết nhiệt, ung độc, hậu bối,… Những người cơ thể có tính hàn, không bị bệnh ôn độc và phụ nữ có thai không được dùng. Sừng tê giác được sử dụng trong rất nhiều bài thuốc cổ phương trị các chứng viêm nhiệt, các trường hợp sốt cao, co giật, chảy máu cam, ung nhọt,…Danh y Tuệ Tĩnh và Hải Thượng Lãn Ông cũng đã ghi nhận những công dụng của sừng tê trong các tài liệu của mình.

Cách dùng thường là mài với nước nóng trong dụng cụ bằng sành sứ thô ráp cho tới khi nước mài trở thành dung dịch trắng đục như sữa, hoặc tán bột mịn rồi uống, mỗi ngày từ 0,5 – 1 gam. Có thể hoà bột sừng với nước sắc thuốc hoặc trộn chung với các loại bột thuốc khác rồi làm thành viên.

Sừng tê giác có chứa keratin, các dẫn xuất guanidine, carbonat calcium và phosphate calcium. Cho đến nay vẫn chưa có bất kỳ một công trình nghiên cứu khoa học lâm sàng nào chứng minh các tính chất chữa bệnh của sừng tê theo y văn cổ. Phải chăng vì nó quá đắt tiền và quá hiếm? Trong một cố gắng chứng minh các tính chất trị liệu của sừng tê chỉ là chuyện hoang đường, hãng dược phẫm Hoffmann-LaRoche đã tiến hành một nghiên cứu dược lý về tác dụng invitro của sừng tê năm 1983 và đưa ra kết luận là không tìm thấy bất kỳ hoạt chất nào có tác dụng chữa bệnh. Đây cũng là kết luận từ một nghiên cứu của Trường Đại học Trung quốc ở Hong Kong năm 1990. Như vậy, việc dùng sừng tê để trị bệnh cho đến nay vẫn chỉ dựa vào lời đồn đại, những truyền thuyết và kinh nghiệm cá nhân, lâu dần trở thành niềm tin chứ hoàn toàn không có bất cứ cơ sở khoa học nào.

Bs. Phan minh Trí – Viện Y dược học dân tộc thành phố Hồ Chí Minh.
Trích báo Thuốc và Sức Khỏe (số 238 – Tháng 11/2015)

Hội nghị “Hướng dẫn triển khai đánh giá chất lượng bệnh viện và khảo sát hài lòng người bệnh, nhân viên y tế năm 2015”

Ngày 10/11/2015, tại Viện Y Dược học Dân tộc TP. Hồ Chí Minh, Bộ Y tế tổ chức Hội nghị “Hướng dẫn triển khai đánh giá chất lượng bệnh viện và khảo sát hài lòng người bệnh, nhân viên y tế năm 2015”. PGS.TS. Lương Ngọc Khuê, Cục trưởng Cục Quản lý Khám, chữa bệnh, ThS. Nguyễn Ngọc Tuấn, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Y Dược Cổ truyền, Bộ Y tế đồng chủ trì Hội nghị.

2

Hội nghị có sự tham dự của các đồng chí lãnh đạo một số Cục, Vụ thuộc Bộ Y tế, đại diện 31 Sở Y tế khu vực phía Nam, đại diện các bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế, các bệnh viện đa khoa tỉnh, các bệnh viện hạng 1, các bệnh viện Y Dược cổ truyền và một số bệnh viện tư nhân khu vực phía Nam (từ Quảng Nam trở vào).

Một số hình ảnh hoạt động.

8

134 5 6 7

Cây lược vàng trị được bệnh ung thư không?

Cây Lược vàng (LV) có tên khác là cây Lan vòi, tên tiếng Anh: Basket plant (Cây giỏ, vì được trồng trong giỏ) và tên La tinh: Callisia fragrans (Lindl.) Woods., thuộc họ Thài lài (Commelinaceae).

1

1. Cây LV có chứa những chất gì?
Thành phần hoá học: (theo Gs.Ts. Nguyễn Văn Hùng và Cs., Viện Hoá sinh biển VN, Nghiên cứu thành phần hoá học của cây LV). Nhóm nghiên cứu đã phát hiện ra sự có mặt của lớp chất ecdysteroit trong cây LV và đã phân lập được 19 hợp chất ecdysteroit từ các bộ phận lá, thân và chồi nhánh cây trong đó có 4 chất ecdysteroit mới là turkesterone2-O-β-D-glucopyranoside (CFLW19.4) từ lá cây và callecdysterol A (CFT3), callecdysterol B (CFT5) và callecdysterol C (CFT8) từ thân cây.

2. Cây LV có tác dụng gì đối với cơ thể?
Nhóm chất ecdysteroid được nghiên cứu in vitro (ngoài cơ thể sống, trong ống nghiệm) ghi nhận có nhiều hoạt tính sinh học như:
– Gây độc trên tế bào ung thư,
– Kháng viêm, kháng sinh, chống oxy hoá, huỷ gốc tự do (gốc tự do gây tổn thương đến tế bào của cơ thể).
– Ức chế enzyme alpha-glucosidase (có tác dụng hạ đường huyết),
– Kích thích tế bào lympho (tăng sức đề kháng của cơ thể).
3. Cách sử dụng cây LV làm thuốc:
Nên chọn những cây có ít nhất 9 – 10 đốt trở lên (không ngắn dưới 20cm), và có màu tím sậm để hoạt chất có trong cây sẽ đạt mức tối đa.  Thường LV có thể dùng đường uống hoặc xoa đắp bên ngoài.
Cách 1: dùng đường uống

– Dùng lá tươi: rửa sạch, đâm hoặc nhai nhuyễn với ít muối uống.
– Liều thường dùng: thường khoảng 5 – 10 lá/ngày tuỳ tuổi và cân nặng.
– Toàn cây LV, cắt nhuyễn, phơi hoặc sấy khô (lưu ý dù khô nhưng vẫn còn màu xanh của lá, không phơi hoặc sấy quá khô cây chuyển sang màu vàng sẽ mất hết tác dụng trị bệnh) dùng nấu uống uống với liều từ 15 – 20 g/ ngày.
– Toàn cây cắt nhuyễn ngâm trong rượu nếp loại tốt (không pha cồn) sau khoảng 1 tháng khi nước có màu hơi đỏ như rượu vang có thể uống được, liều từ 10 ml x 2 lần ngày. Có thể tăng dần tuỳ bệnh và sự dung nạp của cơ thể.
Cách 2: dùng ngoài đường uống (xoa, đắp) trong trường hợp bệnh ngoài da, viêm – sưng khớp, bong gân, bầm máu…
– Toàn cây, thái mỏng và ngâm trong rượu hoặc cồn 700 sau vài tuần, chiết lấy phần nước dùng bôi ngoài.
– Toàn cây đâm vắt lấy nước để giữ trong tủ lạnh, bã được phơi hoặc sấy khô, phần bã này được ngâm trong dầu thực vật (dầu dừa, ô liu, dầu đậu phộng) sau 2 tuần sẽ lọc bỏ bã lấy phần dịch trộn chung với phần nước vắt (đã giữ lạnh) cho vào lọ thuỷ tinh màu tối, bảo quản nơi thoáng mát.
– Hoặc cắt toàn cây LV thành đoạn nhỏ, cho hết vào nồi trộn với dầu thực vật (dầu dừa, dầu đậu phộng, dầu ô liu) vừa đủ, đun ở nhiệt độ khoảng 400c trong vài giờ. Sau đó lọc qua gạc lưới bỏ bã và cho hỗn dịch vào trong lọ thuỷ tinh màu tối, bảo quản nơi mát sẽ dùng dần.
Cách 3: dạng thuốc mỡ bôi ngoài da:
Cắt nhỏ toàn cây LV và nghiền thật nhuyễn, sau đó trộn với vaselin hoặc bột  nhão để tạo thành hỗn hợp theo tỉ lệ 2:3 tạo thành khối thuốc mỡ và cho vào lọ thuỷ tinh màu đậm, giữ nơi mát.
4. Cây Lược vàng có độc tính không?
Thông thường loại cây có dược tính (có tác dụng trị bệnh) ít nhiều sẽ có độc tính, nhưng qua các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy độc tính của LV rất thấp. Cụ thể Ts. Trịnh Thị Diệp, Viện Dược liệu, thông báo kết quả nghiên cứu độc tính cấp của LV xác định liều LD50 (LD50: liều gây chết 50% số vật thí nghiệm) = 2430 g dược liệu tươi/kg thể trọng và liều đang được nhiều người sử dụng trong chữa bệnh hiện nay  là 5-6 lá tươi/ ngày, chỉ xấp xỉ bằng 1/1000 LD50.
5. Vậy sử dụng cây LV trị bệnh gì?
Hiện cây LV chưa có tên chính thức trong Dược điển, chỉ dùng trị bệnh theo kinh nghiệm và một số tác giả đã ghi nhận mang tính chất quan sát, thu thập  ý kiến của người sử dụng thông báo kết quả tốt khi uống trị một số bệnh: tiêu hoá tốt hơn, cắt cơn đau dạ dày, giảm đau mỏi cơ – xương – khớp, ổn định huyết áp…;  bôi bên ngoài: chống tiết dịch, giảm ngứa, sưng đau trong một số bệnh ngoài da, chấn thương, bong gân…Thực vậy,  điểm chung của đa số các bệnh khó như bệnh mạn tính không lây như: tăng huyết áp, đái tháo đường, vữa xơ động mạch, gout, viêm khớp do thấp, viêm ruột – dạ dày, viêm da dị ứng và bệnh ung thư …có một số biểu hiện cùng đồng hành với quá trình bệnh lý là:
– Viêm vô khuẩn (không có vi trùng), hoặc viêm do nhiễm khuẩn cơ hội,
– Sản sinh quá nhiều gốc tự do nên tổn hại đến tế bào và chức năng hoạt động bình thường của cơ thể,
– Sức chống đỡ (sức đề kháng) với yếu tố gây bệnh suy giảm,
– Môi trường cơ thể bị nhiễm acid.
Qua kinh nghiệm sử dụng thực tế có kết quả tốt của nhiều người bệnh và kết quả nghiên cứu in vitro, cho thấy cây LV gây: độc trên tế bào ung thư, có tính chống viêm, kháng sinh, chống oxy hoá, trung hoà gốc tự do, hạ đường huyết, tăng sức đề kháng, kiềm hoá môi trường cơ thể…nên rõ ràng cây LV chắc chắn có tác dụng ít nhiều với các bệnh kể trên. Tuy nhiên, hiệu quả trị bệnh của cây LV còn tuỳ thuộc vào độ nặng của bệnh, sự đáp ứng của cơ thể và liều lượng sử dụng thích hợp ra sao? Chúng ta phải tiếp tục chờ đợi kết quả của những nghiên cứu có giá trị khoa học được tiến hành trong thời gian sắp tới.
6. Sự quái ác của bệnh ung thư và cây LV có trị được ung thư không?
Mỗi năm, Việt Nam có 70.000 người chết do bệnh ung thư, có 200.000 người bệnh mới bị ung thư, con số này ngày càng gia tăng (theo Dự án Phòng chống Ung thư Quốc gia). Như chúng ta biết, có hơn 200 loại ung thư khác nhau trên cơ thể của con người. Phần lớn ung thư biểu hiện ở dạng khối u ác tính, khác với u lành tính (thường phát triển chậm, tại chỗ, có vỏ bọc). Điều đáng sợ nhất của khối u ác tính là tính xâm lấn vào các tổ chức xung quanh hoặc di chuyển tới hạch bạch huyết, các cơ quan ở xa và hình thành các khối ung thư mới, tiếp tục xâm lấn, tàn phá các tế bào, các tổ chức của cơ thể. Đây chính là hiện tượng di căn của tế bào ung thư, nếu không được điều trị tích cực và kịp thời người bệnh sẽ bị tử vong là không tránh khỏi. Nhắc lại đặc tính quái ác và nguy hiểm của ung thư để cho thấy rằng việc điều trị bệnh này chắc chắn không đơn giản, cần phối hợp nhiều biện pháp cả Tây – Đông y và không thể chỉ đơn độc dựa vào một vài loại cây thuốc, trong đó có cây LV, mà trị khỏi được bệnh ung thư.
Lưu ý sử dụng:
– Không nên uống cây LV cùng một lúc với các thuốc khác đặc biệt tân dược;
– Không nên dùng dạng rượu LV trên người bị viêm – xơ gan, tăng huyết áp hoặc tăng đường huyết chưa kiểm soát tốt, người không uống được rượu;
– Vì LV có tính mát nên những người có cơ địa lạnh (sợ lạnh, dễ tiêu chảy) không uống nước ép tươi LV vào buổi tối;
– Cần tham khảo ý kiến của thầy thuốc trước khi sử dụng LV để trị bệnh.
– Trẻ em dưới 5 tuổi ưu tiên dùng bôi hoặc đắp ngoài.

Bs Trần Văn Năm – Nguyên phó viện trưởng Viện Y Dược Học Dân Tộc thành phố Hồ Chí Minh.
theo (http://bstranvannam.blogspot.com/2015/05/cay-luoc-vang-tri-uoc-benh-ung-thu-khong.html)

Hội thảo về thành tựu khoa học của Châm cứu Việt Nam

Ảnh Thái Linh

Vừa qua, Viện Y Dược học Dân tộc TP.HCM phối hợp với bệnh viện Châm cứu Trung ương (TW) và Hội Đông y TP.HCM tổ chức buổi Hội thảo khoa học “Thành tựu khoa học của châm cứu Việt Nam”; với sự tham dự của những giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ đầu ngành về cơ xương khớp, châm cứu cùng các bác sĩ, lương y, y sĩ từ các bệnh viện y học cổ truyền, bệnh viện đa khoa của 20 tỉnh thành phía Nam. Dịp này, bệnh viện Châm cứu Trung ương thực hiện chuyển giao gói kỹ thuật cao “Điều trị, tư vấn và kiểm soát đau cột sống” cho Viện Y Dược học Dân tộc TP.HCM theo đề án 1816.

Bệnh viện Châm cứu TW trao biểu trưng chuyển giao và một số trang thiết bị phục vụ cho công tác chuyển giao gói kỹ thuật cao “Điều trị, tư vấn và kiểm soát đau cột sống” cho Viện Y Dược học Dân tộc TP.HCM theo đề án 1816.Ảnh Thái Linh

PGS.TS.BS Nghiêm Hữu Thành, Giám đốc bệnh viện Châm cứu TW cho biết: Châm cứu Việt Nam đã có hàng ngàn năm lịch sử và không ngừng phát triển đạt được những thành tựu đáng kể song song với y học hiện đại trong hoạt động khám bệnh, chữa bệnh. Cùng với các loại hình châm cứu truyền thống, châm cứu Việt Nam đã có sự thay đổi phát triển như cải tiến kim châm; cách thức tác động vật lý đến huyệt đạo như sử dụng sóng, xung điện, tia lase, tia hồng ngoại…; mở rộng phạm vi của châm cứu như kết hợp thuốc y học cổ truyền, thuốc hiện đại, phương tiện hiện đại… và sự kết hợp chặt chẽ giữa y học cổ truyền với y học hiện đại trong chẩn đoán, điều trị. Theo đó, Ngành y tế đã xây dựng phác đồ điều trị bằng y học cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe ban đầu, trong điều trị những bệnh lý phức tạp.

Tại hội thảo, những thành tựu của châm cứu Việt Nam được thể hiện rõ nét qua những bài báo cáo chuyên đề của các giáo sư, phó giáo sư, bác sĩ chuyên gia đầu ngành về những kinh nghiệm thực tiễn của châm cứu được ứng dụng trong khám bệnh, chữa bệnh. Theo đó, hội thảo đã đề cập đến một loạt các chuyên đề về châm cứu trong điều trị di chứng tai biến mạch máu não; phương pháp châm cứu chống đau theo ngũ hành luận trị để giảm đau trên hội chứng đau nhức và các hội chứng bệnh lý khác; hiệu quả của châm cứu trong những vấn đề điều trị thoái hóa khớp và ứng dựng giải phẫu trong châm cứu.

Minh chứng rõ ràng cho những thành tựu của châm cứu Việt Nam, PGS.TS.BS Nghiêm Hữu Thành, Giám đốc bệnh viện Châm cứu TW đã hướng dẫn cho đội ngũ y bác sĩ Viện Y Dược học Dân tộc thực hiện phương pháp “Châm cứu xuyên huyệt” – là một trong những kỹ thuật sẽ được chuyển giao cho Viện Y Dược học Dân tộc TP.HCM theo Đề án 1816. Với phương pháp này ngay trong buổi hội thảo sau khoảng hơn 20 phút, PGS.TS.BS Hữu Thành đã giúp cho một bệnh nhân nữ (26 tuổi, ngụ tại Long Khánh, đang được điều trị 2 tuần tại Viện Y Dược học Dân tộc) có thể đứng dậy và bước lên hội trường xúc động bày tỏ cảm xúc khi có lại cảm giác của đôi chân bị liệt gần 3 tháng nay do di chứng của cơn nhồi máu não thoáng qua.

Cũng trong dịp này, Viện Y Dược học Dân tộc thành phố tổ chức đợt tập huấn Kỹ năng thực hành xã hội cho toàn thể cán bộ, công nhân viên chức của đơn vị. Với chủ đề “Đỉnh cao sự nghiệp”, diễn giả Trịnh Xuân Khanh đem đến những thông điệp về những bài học sâu sắc mang đậm tính nhân văn của con người và cuộc sống; về tư duy luôn luôn chấp nhận những thách thức, vượt qua những rào cản, xây dựng niềm tin yêu nghề để phát triển những kỹ năng của nghề đạt được đỉnh cao.

(Theo Medinet)

 

Châm cứu giúp tăng tỉ lệ thành công

Bác sĩ CK2 Lý Thái Lộc, trưởng khoa hiếm muộn Bệnh viện Hùng Vương, khám và tư vấn cho bệnh nhân điều trị hiếm muộn - Ảnh: Mỹ Dung

TT – Một nghiên cứu của nhóm bác sĩ Quan Vũ Ngọc (Viện Y dược học dân tộc TP.HCM), bác sĩ Lý Thái Lộc (Bệnh viện Hùng Vương)… là tin vui cho nhiều người hiếm muộn.

Bác sĩ CK2 Lý Thái Lộc, trưởng khoa hiếm muộn Bệnh viện Hùng Vương, khám và tư vấn cho bệnh nhân điều trị hiếm muộn - Ảnh: Mỹ Dung
Bác sĩ CK2 Lý Thái Lộc, trưởng khoa hiếm muộn Bệnh viện Hùng Vương, khám và tư vấn cho bệnh nhân điều trị hiếm muộn – Ảnh: Mỹ Dung

Theo đó, châm cứu trước và sau khi chuyển phôi sẽ làm tăng khả năng thụ thai của các ca thụ tinh trong ống nghiệm lên 20%.

Thụ tinh trong ống nghiệm đã giúp giảm phần nào nỗi bất hạnh vô sinh nhưng tỉ lệ thành công khi cấy phôi vào bệnh nhân hiện là dưới 30%.

Tăng tỉ lệ có thai cả với người trên 35 tuổi

Báo cáo tại Hội nghị khoa học công nghệ tuổi trẻ lần thứ 23 do ĐH Y dược TP.HCM tổ chức ngày 9-1, ThS.BS y học cổ truyền Quan Vũ Ngọc cho biết hơn 30 năm nay, cả thế giới đều luôn nghiên cứu tìm những phương cách hiện đại để giúp tăng cao tỉ lệ thành công của thụ tinh trong ống nghiệm. Gần đây, phương pháp châm cứu được nghiên cứu áp dụng trong điều trị vô sinh ở nhiều nước phương Tây nhưng hiện Việt Nam vẫn chưa ứng dụng. Mặt khác, chưa nghiên cứu nào đánh giá hiệu quả của việc châm cứu liên quan đến điều trị vô sinh bằng thụ tinh trong ống nghiệm. Vì thế, cùng với PGS.TS Nguyễn Duy Tài (bộ môn sản ĐH Y dược TP.HCM), bác sĩ Vũ Thị Nhung (Hội Phụ sản TP.HCM), bác sĩ chuyên khoa II Lý Thái Lộc (trưởng khoa hiếm muộn BV Hùng Vương), ThS.BS Quan Vũ Ngọc đã thực hiện nghiên cứu hiệu quả của phương pháp kết hợp đông – tây y này. Nhóm tác giả đã thực hiện và cho kết quả nghiên cứu trên 68 bệnh nhân đang điều trị hiếm muộn tại BV Hùng Vương theo phương pháp đối chứng.

Những bệnh nhân được chọn là nữ tuổi dưới 38, từng được bơm tinh trùng vào buồng tử cung hơn ba chu kỳ nhưng thất bại hoặc vô sinh do tắc vòi tử cung hai bên, lạc nội mạc tử cung nặng, vô sinh do yếu tố nam nặng, vô sinh không rõ nguyên nhân. Tất cả bệnh nhân này được thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm đã đến giai đoạn chuyển phôi. Vào trước và sau thời điểm chuyển phôi, họ được bác sĩ chỉ định châm cứu 25 phút tại các huyệt ở tai (nhĩ châm), đầu, vùng bụng và chân (thể châm). Kết quả, châm cứu làm tăng tỉ lệ thụ thai lên hơn 20%.

Cụ thể, với những bệnh nhân được châm cứu tỉ lệ thử HCG sau hai tuần cho thấy 50% có thai, và ở nhóm giả châm cứu chỉ có 26,5% bệnh nhân có thai. “Kết quả này cho phép chúng tôi loại trừ việc châm cứu chỉ là một liệu pháp tinh thần vì với những bệnh nhân thực hiện theo phương pháp giả châm, tỉ lệ thụ thai ngang với tỉ lệ không can thiệp, ở mức dưới 30%”, ThS.BS Quan Vũ Ngọc khẳng định. Đáng nói là theo lý thuyết, tuổi càng cao thì khả năng mang thai sẽ giảm nhưng ở đây số bệnh nhân thụ thai lại tập trung đa số ở nhóm trên 35 tuổi. Tỉ lệ này ở nhóm bệnh nhân được châm cứu là 58,3%, trong khi từ 35 tuổi trở lên khả năng thụ thai ở nhóm giả châm chỉ đạt 16,7%.

Chưa thấy tác dụng phụ

Các bác sĩ bắt đầu thực hiện nghiên cứu từ tháng 11-2012, đến nay thực hiện trên 99 bệnh nhân, trong đó 10 phụ nữ đã sinh con. Kết quả theo dõi biểu hiện của bệnh nhân sau châm cứu cho thấy dấu hiệu sinh tồn như mạch, huyết áp tâm thu, nhiệt độ và nhịp thở đều cải thiện nhưng biểu hiện trước và sau khi châm cứu một thời gian đều không có gì bất thường. Ở một khía cạnh khác, bác sĩ chuyên khoa II Lý Thái Lộc cho biết những bệnh nhân “có thai sinh hóa” (dương tính với HCG) trong 68 bệnh nhân đó không ca nào sẩy thai.

“Chúng tôi đang nghiên cứu và theo dõi các bệnh nhân được châm cứu từ thai sinh hóa, thai lâm sàng, thai diễn tiến đến khi bệnh nhân sinh con. Sau khi có kết luận thống kê, BV Hùng Vương sẽ triển khai châm cứu cho toàn bộ bệnh nhân điều trị hiếm muộn theo dạng thụ tinh trong ống nghiệm”, bác sĩ Lý Thái Lộc hồ hởi nói. PGS-TS-BS Huỳnh Nguyễn Khánh Trang, phó chủ nhiệm bộ môn phụ sản ĐH Y dược TP.HCM, trưởng khoa sản Bệnh viện Hùng Vương, cho biết thế giới đã bắt đầu nghiên cứu và phối hợp điều trị vô sinh giữa đông y và tây y. Đây là nghiên cứu đầu tiên của Việt Nam về lĩnh vực này và kết quả thật sự lạc quan.

351 đề tài chuyên ngành y khoa được báo cáo

Hội nghị khoa học công nghệ tuổi trẻ lần thứ 23 và Hội nghị khoa học kỹ thuật lần thứ 31, ĐH Y dược TP.HCM diễn ra vào ngày 9 và 10-1. Hội nghị thu hút 137 đề tài khoa học công nghệ tuổi trẻ và 215 đề tài chuyên ngành: nội, y học cơ sở, nhiễm, thần kinh, gây mê hồi sức, lão khoa, hồi sức cấp cứu chống độc, ngoại niệu, u máu, chẩn đoán hình ảnh, tạo hình thẩm mỹ, ung thư, giải phẫu học, phụ sản, nhi, tai mũi họng, mắt, y tế công cộng, khoa học cơ bản. Đây là một trong những hoạt động thường niên của ĐH Y dược TP.HCM.

Mỹ Dung

Cô gái 9x liệt nửa người đi lại được sau khi châm cứu

Thầy thuốc dùng chiếc kim Đại trường châm 30 cm đả thông các kinh huyệt giúp chị Thảo Vy đi lại được sau 3 tháng bán thân bất toại. 

Chị Thảo Vy Rina 25 tuổi, là chủ một doanh nghiệp chuyên kinh doanh hải sản tươi sống ở huyện Long Khánh, tỉnh Đồng Nai. Từ năm 15 tuổi chị đã bị cao huyết áp do di truyền, bố và ông nội cũng mắc bệnh này. Cách đây 3 tháng chị bị một cú sốc tinh thần đã khóc rất nhiều dẫn đến huyết áp tăng đột ngột rồi ngất xỉu. Hai tiếng đồng hồ sau người nhà phát hiện đưa chị đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa khu vực Long Khánh.

“Tỉnh dậy trong phòng cấp cứu, tôi thấy toàn thân nặng nề. Nửa mặt bên trái méo xệch, tai ù, nhấc chân trái lên không được. Tôi sốc lắm, chỉ biết khóc như bị thần kinh”, bà mẹ một con hồi tưởng. Sau một thời gian điều trị tại 2 bệnh viện địa phương không thấy tiến triển, chị quyết định tìm đến phương pháp châm cứu ở Viện Y Dược học Dân tộc TP HCM.

 

Sau một thời gian điều trị bằng phương pháp châm cứu, chị Vy đã tập tễnh đi lại được. Ảnh: Trần Ngoan.
Sau một thời gian điều trị bằng phương pháp châm cứu, chị Vy đã tập tễnh đi lại được. Ảnh: Trần Ngoan.

Trực tiếp điều trị cho chị Vy là bác sĩ Huỳnh Thanh Ân, Khoa Nội Tim mạch Thần kinh, Viện Y Dược học Dân tộc TP HCM. Bác sĩ Ân cho biết bệnh nhân bị liệt nửa thân bên trái được chẩn đoán do nhồi máu não. Sau 12 tiếng đồng hồ nhập viện, phần thân trên và tay của bệnh nhân đã dần hồi phục, riêng chân trái sau 2 tuần điều trị vẫn chưa cử động được.

Chị Vy là trường hợp điển hình được điều trị bằng Đại trường châm (kim châm dài) báo cáo tại hội thảo khoa học tổng kết thành tựu và chuyển giao kỹ thuật châm cứu Việt Nam hôm 23/10. Phó giáo sư, tiến sĩ Nghiêm Hữu Thành, Giám đốc Bệnh viện Châm cứu Trung ương đã dùng nhiều chiếc kim dài khoảng 30 cm tác động trực tiếp vào các huyệt đạo và kinh trải dọc phần cơ thể bên trái của bệnh nhân. 

Chị Vy miêu tả kim châm vào cơ thể có cảm giác tê nhưng không đau. Một tiếng đồng hồ sau, thầy thuốc rút kim ra, toàn thân chị run bần bật, cảm giác ớn lạnh lan khắp người, mồ hôi ướt áo. Sau đó giáo sư Thành bảo bệnh nhân nhấc chân trái lên, chị không tin mình có thể làm được. “Cho đến khi nhấc được chân lên và đặt xuống như lời bác sĩ yêu cầu, tôi òa khóc vì vui sướng. Tôi không tin mình có thể hồi phục được như vậy”, nữ bệnh nhân nhớ lại.

Sau vài ngày được điều dưỡng hướng dẫn đi đứng, vận động tại chỗ và tập vật lý trị liệu, đến nay sức khỏe của chị Vy đã hồi phục tốt, tự đi lại được. Dự tính cuối tuần này chị sẽ xuất viện. Bác sĩ căn dặn bệnh nhân cần thường xuyên đi lại, không nên nằm lâu. Bên cạnh đó cần có chế độ ăn nhạt, giữ tinh thần thoải mái, không để huyết áp tăng cao. Các bác sĩ cho rằng sự hồi phục của bệnh nhân Thảo Vy rất ngoạn mục, song cần được theo dõi thêm để đánh giá hiệu quả về lâu dài.

Phó giáo sư Hữu Thành cho biết phương pháp châm cứu rất quan trọng trong y học dân tộc cổ truyền phương Đông. Từ nghìn xưa, châm cứu được áp dụng trong lĩnh vực phòng bệnh và chữa bệnh, được nhiều người Việt Nam ưa thích. Lý luận chọn kinh, huyệt của châm cứu Việt Nam dựa trên nền tảng kế thừa các học thuyết Âm dương, Ngũ hành, Kinh lạc, song có sự phát triển kết hợp với giải phẫu thần kinh và sinh lý đau hóa sinh.

Trước đây y thuật châm cứu cổ điển chỉ sử dụng kim ngắn tác động đơn huyệt, không xuyên huyệt. Phương pháp châm cứu của Việt Nam hiện đại (gọi tắt là châm Việt) đã có một bước tiến mới là sử dụng Đại trường châm xuyên nhiều huyệt. Theo đó giúp hỗ trợ điều trị được nhiều căn bệnh nan y của thời đại như cắt cơn ma túy, stress, tự kỷ, bại não, đau cột sống thắt lưng, đau nửa đầu, liệt sau đột quỵ não cấp…

2
Châm cứu được chứng minh điều trị được nhiều bệnh mạn tính. Ảnh: Health.

Phương pháp châm Việt với châm xuyên kinh, xuyên huyệt đã được giáo sư Nguyễn Tài Thu, phó giáo sư Nghiêm Hữu Thành nghiên cứu cơ chế tác dụng qua 3 đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, 6 đề tài cấp Bộ Y tế suốt hơn 30 năm qua.

Trong đó, kỹ thuật châm kim xuyên kinh là thủ thuật dùng kim châm xuyên từ kinh dương sang kinh âm nhằm “tòng dương dẫn âm”, nghĩa là đưa khí từ kinh dương hỗ trợ cho kinh âm đang ở trạng thái thiểu khí. Hoặc ngược lại, châm kim từ kinh âm sang kinh dương nhằm “tòng âm dẫn dương”, giúp đưa khí từ kinh âm hỗ trợ cho kinh dương đang thiểu khí. Đặc biệt, châm xuyên kinh với kim Đại trường châm giúp nâng cao khả năng điều khí huyết gấp nhiều lần, cải thiện tình trạng liệt sau nhồi máu não. 

Kỹ thuật châm xuyên huyệt là thủ thuật châm kim xuyên từ hai huyệt trở lên, giúp nâng cao khả năng vận hành khí huyết trên một đường kinh mạch. Từ đó khai thông sự tắc nghẽn của khí huyết.

Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đánh giá Việt Nam là một trong 5 nước phát triển nhất thế giới về thuật châm cứu – y học cổ truyền. Nhà nước đã thừa nhận đây là một phương pháp điều trị chính thức đồng hành với y học hiện đại. Hiện nay châm cứu Việt Nam đã được Luật Giáo dục công nhận có bậc đào tạo cho các học vị bác sĩ đa khoa, thạc sĩ, tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư chuyên ngành châm cứu. Mới đây, kỹ thuật Đại trường châm kim đã được chuyển giao cho nhiều bệnh viện vệ tinh ở các tỉnh thành, trong đó có Viện Y Dược học Dân tộc TP HCM.

Trần Ngoan
tranngoan@vnexpress.net

Theo Vnexpress (http://suckhoe.vnexpress.net/tin-tuc/suc-khoe/co-gai-9x-liet-nua-nguoi-di-lai-duoc-sau-khi-cham-cuu-3303233.html

Tìm hiểu tác dụng phòng và trị bệnh của Tỏi Đen

Từ rất xa xưa, tỏi được dùng làm gia vị thông dụng. Tỏi có tên khoa học là Allium sativum L. Họ: Hành (Alliaceae). Qua kinh nghiệm sử dụng làm thực phẩm, người ta cũng nhận thấy Tỏi lại có tác dụng chữa bệnh, từ đó Tỏi còn được dùng làm dược liệu có vai trò trong phòng và chữa được một số loại bệnh thường gặp trong cuộc sống hằng ngày.

Toiden

Tại Việt Nam, hiện có 2 nhóm Tỏi phổ biến được sử dụng:

  • Loại Tỏi củ nhỏ, thơm, nhiều tinh dầu, trồng nhiều ở các tỉnh Phía bắc.
  • Loại Tỏi củ to trồng ở các tỉnh phía nam (ven biển miền Trung, đảo Lý sơn – Quảng ngãi, Bình thuận và Ninh thuận) vì tính chất thổ nhưỡng và khí hậu có khác nhau nên nồng độ hoạt chất giữa 2 nhóm có thể không hoàn toàn giống nhau.

Bộ phận dùng làm gia vị hoặc làm thuốc là thân hành còn gọi giò hay củ, tên dược liệu cổ truyền là Đại toán. Ngoài các dạng tỏi sử dụng truyền thống từ trước đến nay như: tỏi ngâm dấm, ngâm đường, ngâm rượu…hiện nay, một dạng Tỏi được chế biến khi lên men gọi là Tỏi đen.
Tỏi đen (Black garlic) [1] được biết đến rất lâu ở Hàn quốc và Nhật bản, riêng tại Việt Nam, vài năm gần đây Tỏi đen bắt đầu được sử dụng làm thực phẩm. Đây là dạng tỏi được lên men từ tỏi tươi trong một thời gian dài, sản phẩm thu được sẽ có màu đen, vị ngọt, không còn mùi cay hăng của tỏi thường và có tác dụng tốt hơn Tỏi tươi. Vì sau khi lên men hàm lượng các nhóm hoạt chất tăng rất cao trong Tỏi đen, đặc biệt hàm lượng S-allyl-L-cystein (SAC).
Qua quá trình lên men nên tỏi đen giảm mùi hăng cay của tỏi tươi, tỏi trở nên ngon miệng hơn, dễ ăn hơn, đồng thời biến mất mùi hôi ở miệng sau khi ăn tỏi. Tỏi đen có hương vị như hoa quả sấy khô, ngọt và hơi dai, thường được dùng ăn kèm và trang trí trong nhiều món ăn ở các nhà hàng lớn.
1. Cách chế biến Tỏi đen: Tỏi tươi, chọn loại tốt được ủ ở nhiệt độ từ 60 – 800C, trong thời gian khoảng 30 – 45 ngày sẽ biến thành Tỏi đen. Chế biếnTỏi đen gọi là tốt khi bề ngoài Tỏi đen có màu đen nhánh, dẽo, không dính, có vị ngọt khi nếm.
2. Vì sao Tỏi có màu đen và tăng tác dụng sinh học khi lên men [2],[3]?
Trong quá trình lên men, protein trong tỏi tươi bị cắt thành các amino acid, carbohydrate, đặc biệt allicin thành chất không mùi, alliin giảm tính kích thích và bị khử oxy vì thế tỏi trở thành màu đen. Tỏi đen thay đổi vị, mùi, ăn được, dễ hấp thu và duy trì được giá trị trong y học. Hoạt tính của men SOD (Superoxide dismutase) mạnh gấp 8,7 lần tỏi tươi, nồng độ polyphenol có tác dụng chống gốc tự do mạnh hơn tỏi tươi 10 lần.
Thành phần khác nhau của 2 dạng tỏi tươi và đen:

  SAC (mg/g) Calcium (mg) Phosphorus (mg) Protein (g)
Tỏi đen 5,84 36,66 80 12,5
Tỏi tươi 0,32 5,0 40 2,2

Khi lên men, Tỏi đen sẽ có chứa một số hợp chất có hoạt tính mà tỏi tươi không có hoặc có rất ít như: chất polyphenol, flavonoid, carboline, thiosulfate.
3. Tác dụng sinh học của tỏi đen [3],[4]:
Ngoài các tác dụng giống như tỏi tươi, tỏi đen còn có thêm những tác dụng rất quý. Trong Tỏi đen có hợp chất SAC với hàm lượng cao, chất này được chứng minh có nhiều tác dụng sinh học quý như: chống oxyt hoá, điều biến hệ miễn dịch, ức chế tế bào ung thư cao hơn từ 6 – 12 lần so với tỏi tươi. Khi thử nghiệm trên chuột, chất này có tác dụng chống phân bào trên một số loại ung thư như: phổi, gan, đại tràng…

– Tác dụng chống ung thư:
Quá trình lên men dài đã biến tỏi tươi thành một loại “siêu tỏi” (super-garlic). Hợp chất SAC (một thành phần tự nhiên có trong tỏi tươi) và một dẫn xuất của amino acid cysteine được thấy có hàm lượng lớn hơn nhiều trong tỏi đen so với tỏi tươi, chúng có tác dụng chống gốc tự do, hạn chế sự phát triển của tế bào ung thư. Các nghiên cứu về tác dụng sinh học của tỏi đen cho thấy: Các hợp chất sulfur hữu cơ, dẫn chất của tetrahydro carboline được hình thành từ quá trình lên men có hoạt tính mạnh chống gốc tự do và ức chế quá trình peroxyt hóa lipid. Ngoài ra dịch chiết tỏi đen có hiệu lực mạnh kháng lại các tế bào khối u do vậy có tác dụng phòng và hỗ trợ điều trị ung thư. Cơ chế chống ung thư của tỏi đen không phải bằng cách trực tiếp gây độc tế bào ng thư mà thông qua con đường kích thích đáp ứng miễn dịch, hạn chế khả năng di căn của các tế bào khối u. Mọt vài nghiên cứu cũng cho thấy rằng tỏi đen giàu chất SAC làm giảm sự phát triển của khối u ruột kết.
– Tác dụng chống vi khuẩn, virus, kháng nấm:
Tỏi tươi chứa các tác nhân chống vi khuẩn, kháng sinh và chống các loại nấm trong thành phần hoạt động allicin của nó. Ở trong tỏi đen, S-ally-L-cysteine hỗ trợ sự hấp thụ allicin, giúp cho sự hấp thụ, chuyển hóa allicin dễ dàng hơn, do đó thúc đẩy mạnh mẽ khả năng tự bảo vệ của cơ thể chống lại vi khuẩn, virus xâm nhập, nhiễm nấm.
– Tác dụng phòng bệnh mạn tính không lây:
Tỏi đen được chứng minh có đặc điểm chống oxyt hóa cao gấp 2 lần tỏi thông thường. Các chất chống oxyt hóa bảo vệ tế bào khỏi bệnh tật, lão hóa, do đó có thể làm chậm lại quá trình lão hóa. Vì thế, tỏi đen có thể hỗ trợ điều trị và phòng các bệnh mạn tính như bệnh tăng huyết áp, bệnh Alzheimer, bệnh đái tháo đường…
Như vậy, tỏi đen được tạo ra sau quá trình lên men có các tác dụng sinh học hơn hẳn so với tỏi thông thường.
– Các tác dụng khác:

o Bảo vệ gan: ổn định men SGOT, SGPT, chống gan nhiễm mỡ,
o Điều biến hệ miễn dịch (immune modulation), giúp cơ thể chống lại tình trạng nhiễm trùng, nhiễm độc.
Như vậy, tỏi đen vừa có tác dụng tốt với sức khỏe, vừa ăn ngon miệng. Vì thế nó ngày càng được sử dụng phổ biến hơn trong các nhà hàng chất lượng cao và trong nhiều món ăn trên thế giới.
5. Liều dùng:
Tuỳ theo mục đích sử dụng trong phòng bệnh hay chữa bệnh và tuỳ thể trạng của người dùng, liều lượng sẽ thay đổi. Tuy nhiên, có thể sử dụng trong hay sau bữa ăn:
Phòng bệnh: từ 2 đến 3 tép tỏi đen/ngày,
Chữa bệnh: trung bình 1 củ (nhiều tép)/ngày.

HIện nay, có một số công ty bào chế Tỏi đen dạng viên (có kết hợp với dược liệu khác hoặc không), liều dùng sẽ theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Lưu ý: cần cân nhắc khi dùng cho trẻ em và phụ nữ mang thai.
Cho dù Tỏi đen được dùng trong ngành thực phẩm và y học từ nhiều năm tại các nước như: Singapore, Hàn quốc, Nhật,…Tuy nhiên, tại Việt Nam, Tỏi đen chỉ mới được biết và sử dụng mới vài năm gân đây do đó chúng ta cần thêm thời gian để theo dõi và đánh giá xác thực về tác dụng phòng và trị bệnh của một loại vừa là thực phẩm cũng đồng thời là thuốc: Tỏi đen.

[1]. Công trình nghiên cứu của Học viện quân y,

[2]. Tạp chí khoa học và kỹ thuật cây hương liệu và cây thuốc (The journal Medicinal and Aromatic Plant Science and Technology).

[3]. Một nghiên cứu được thực hiện tại Trường Đại học Bang Pennsylvania.

[4]. http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed

Bs Trần Văn Năm – Nguyên phó Viện Trưởng Viện Y dược học dân tộc thành phố Hồ Chí Minh

Hội nghị tập huấn kỹ năng Tư Duy và Thực Hành Xã Hội tại Viện Y dược học dân tộc – Diễn giả Trịnh Xuân Khanh

Kỹ năng thực hành xã hội là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của một cá nhân trong môi trường làm việc hiện nay, vốn dĩ đầy áp lực và luôn đòi hỏi cao về nhiều mặt. Đặc biệt, trong môi trường y tế, yêu cầu đó càng khắc khe hơn với đòi hỏi sự tận tuỵ, và mức độ chuyên nghiệp cao. Do vậy, kỹ năng thực hành xã hội càng trở nên cần thiết. Đáp ứng nhu cầu thực tế đó, chiều 23/06/2015 ban  giám đốc Viện y dược học dân tộc TpHCM đã tổ chức buổi hội nghị chủ đề ” kỹ năng thực hành xã hội” cho toàn thể nhân viên và đại biểu khách mời tại hội trường lớn.
4
Diễn giả Trịnh Xuân Khanh, báo cáo viên chính của hội nghị, qua khoảng 3 giờ làm việc ông đã thực sự  mang đến cho người nghe những nhận thức mới và thay đổi sâu sắc trong tư duy theo chiều hướng tích cực.
3 5
Mở đầu bằng câu chuyện sự thay đổi sống còn của đại bàng ở tuổi 40. Nếu muốn tiếp tục sinh tồn và phát triển đại bàng phải trải qua giai đoạn biến hình, thay đổi toàn bộ móng vuốt mới vô cùng đau đớn. Chúng ta nhận thức được rằng không có sự thay đổi nào là dễ dàng. Nhưng nếu không chấp nhận thử thách và tự trải nghiệm những khó khăn thì có lẽ chúng ta sẽ không thể phát triển và thậm chí không còn giá trị tồn tại. Bằng những câu chuyện hấp dẫn, lôi cuốn và liên tục như thế, diễn giả Trịnh Xuân Khanh từng bước dẫn dắt người nghe mở được cánh cửa thành công của chính mình. Đó là sự khác biệt giữa “tư duy làm thuê” và “tư duy doanh nhân”. Đó là 6 sản phẩm của chính bản thân mình mà không phải ai cũng nhận ra như: Thời gian; Kỹ năng; Sức khoẻ; Kiến thức; Ngoại hình; Tính cách. Nếu không thường xuyên tự trao dồi, nâng cao 6 sản phẩm cá nhân này thì chẳng khác nào tự đào thải chính mình.
Như vậy, tư duy là chìa khoá của thành công. Đôi khi, chúng ta phải biết chấp nhận đưa ra những quyết định khó khăn, để phát triển trên một hành trình mới. Tương lai không đâu xa, mà bắt đầu chính từ suy nghĩ của hôm nay.

Ths.Bs Trần Minh Quang.

Đơn vị liên kết

thoi gian lam viec







r>

BÀI MỚI