Trang chủ Blog Trang 156

Tổ chức hội thảo : ” Các phương pháp chữa bệnh bằng y dược cổ truyền “

Sáng nay, ngày 06/09/2014 tại Viện Y Dược Học Dân Tộc thành phố Hồ Chí Minh, Hội Đông y thành phố Hồ Chí Minh đã kết hợp với Viện Y Dược Học Dân Tộc và các quận huyện Hội Đông y trong Thành phố tổ chức Hội thảo tâm đắc: “CÁC PHƯƠNG PHÁP CHỮA BỆNH BẰNG Y DƯỢC CỔ TRUYỀN” .
            Hội thảo là một diễn đàn cho những người làm về Y học cổ truyền nói lên tiếng nói, niềm vui sướng về những tâm đắc, những thành quả đã đạt được của mình sau nhiều năm tháng miệt mài, tận tụy điều trị bệnh nhân.
            Hội thảo đã thu hút gần 300 bác sĩ, thầy thuốc, lương y và những người làm về y học cổ truyền đến tham dự.
            Có 8 báo cáo tâm đắc được báo cáo trong Hội thảo, gồm:
 
1. Tâm đắc về chẩn đoán, theo dõi bệnh U xơ tử cung bằng mạch học và huyệt Dục đoạn sản.
(LY. Trần Nam Hoàn – Phó Chủ tịch Hội Châm cứu TP.HCM)
 
2. Điều trị vô sinh bằng bài thuốc gia truyền Sái Phương (Bình Lục – Hà Nam)
Môn điều kinh trong điều trị phụ khoa, vô sinh bằng thuốc gia truyền Sái Phương
(LY. Trần Thị Thành – Phòng chẩn trị Đông y Tiến Thành)
Báo cáo: LY. Nguyễn Thành Tâm – Chủ tịch Hội Đông y Q.Thủ Đức
 
3. Bài thuốc Tư âm bổ thận thang
(LY. Nguyễn Thanh Sơn – Hội Đông y huyện Cần Giờ)
 
4. Hoàn Trường xuân bổ thận – Hà thủ ô
(LY. Trần Thị Lý – Phòng chẩn trị YHCT Phan Sinh)
Báo cáo: LY. Nguyễn Thị Kim Lan – Phòng chẩn trị YHCT Phan Sinh
 
5. Bài thuốc gia truyền điều trị Viêm xoang mũi họng
(LY. Lê Thị Tất – Phòng chẩn trị Đông y Đại Lộc)
 
6. Kết quả điều trị 70 trẻ bệnh tạo xương bất toàn bằng Cao xương cá sấu Hoa cà
(CN. Tôn Thất Hưng – Giám đốc Công ty TNHH cá sấu Hoa cà)
 
7. Các trường phái nhịn ăn trên thế giới
(BS. Nguyễn Văn Chính – Công ty Dưỡng sinh tiên thiên khí công Việt Nam)
 
8. Phản ứng của cơ thể xảy ra trong quá trình nhịn ăn và cách khắc phục
(ThS.BS. Quan Vân Hùng – Nguyên Trưởng khoa Nội 2 Viện YDHDT)
hoithao1 hoithao2 hoithao3 hoithao4

Học thuyết âm dương

1. Định nghĩa

Cách đây gần 3.000 năm, người xưa đã nhận thấy sự vật luôn luôn có mâu thuẫn nhưng thống nhất với nhau, không ngừng vận động, biến hoá để phát sinh, phát triển và tiêu vong, gọi là Học thuyết âm dương.
Trong y học, Học thuyết âm dương quán triệt từ đầu đến cuối, từ đơn giản đến phức tạp trong suốt quá trình cấu tạo cơ thể, sinh lý, bệnh lý, chẩn đoán, và các phương pháp chữa bệnh y học cổ truyển (thuốc, châm cứu, xoa bóp, khí công v.v…)

2 Các quy luật cơ bản trong học thuyết âm dương
2.1 Âm dương đối lập với nhau
Đối lập là sự mâu thuẫn, chế ước và đấu tranh giữa hai mặt âm dương.

Thí dụ: ngày và đêm, nước và lửa, ức chế và hưng phấn v.v..
2.2. Âm dương hỗ căn
Hỗ căn là sự nương tựa lẫn nhau. Hai mặt âm dương tuy đối lập với nhau nhưng phải nương tựa lẫn nhau mới tồn tại được, mới có ý nghĩa. Cả hai mặt đều là tích cực của sự vật, không thể đơn độc phát sinh, phát triển được.

Thí dụ: Có đồng hoá mới có dị hoá, hay ngược lại nếu không có dị hoá thì quá trình đồng hoá không tiếp tục được. Có số âm mới có số dương. Hưng phấn và ức chế đều là quá trình tích cực của hoạt động vỏ não.
2.3. Âm dương tiêu trưởng
Tiêu là sự mất đi, trưởng là sự phát triển, nói lên sự vận động không ngừng sự chuyển hoá lẫn nhau giữa hai mặt âm dương.

Như khí hậu 4 mùa trong năm luôn thay đổi từ lạnh sang nóng, từ nóng sang lạnh, từ lạnh sang nóng là quá trình “âm tiêu dương trưởng” từ nóng sang lạnh là quá trình “dương tiêu âm trưởng” do đó có khí hậu mát, lạnh, ấm và nóng.
Sự vận động của hai mặt âm dương có tính chất giai đoạn, tới mức độ nào đó sẽ chuyển hoá sang nhau gọi là “dương cực sinh âm, âm cực sinh dương; hàn cực sinh nhiệt, nhiệt cực sinh hàn”.
Như trong quá trình phát triển của bệnh tật, bệnh thuộc phần dương (như sốt cao) có khi gây ảnh hưởng đến phần âm (như mất nước), hoặc bệnh ở phần âm (mất nước, mất điện giải) tới mức độ nào đó sẽ ảnh hưởng đến phần dương (như choáng, truỵ mạch gọi là thoát dương).
2.4. Âm dương bình hành
Hai mặt âm dương tuỵ đối lập, vận động không ngừng, nhưng luôn lặp lại được thế thăng bằng, thế quân bình giũa hai mặt.

Sự mất thăng bằng giữa hai mặt âm dương nói lên sự mâu thuẫn thống nhất, vận động và nương tựa lẫn nhau của vật chất.
Từ 4 quy luật trên, khi vận dụng trong y học người ta còn thấy một số phạm trù sau:
a) Sự tương đối và tuyệt đối của hai mặt âm dương:
Sự đối lập giữa hai mặt âm dương là tuyệt đối, nhưng trong điều kiện cụ thể nào đó có tính chất tương đối. Thí dụ: hàn thuộc âm đối lập với nhiệt thuộc dương, nhưng lương (là mát) thuộc âm đối lập với ôn (là ấm) thuộc dương. Trên lâm sàng tuy sốt (là nhiệt) thuộc dương, nếu sốt cao thuộc lý thuộc lý dùng thuốc hàn, sốt nhẹ thuộc biểu dùng thuốc mát (lương).

b) Trong âm có dương và trong dương có âm:
Âm và dương nương tựa lẫn nhau cùng tồn tại, có khi xen kẽ vào nhau trong sự phát triển. Như sự phân chia thời gian trong một ngày (24 giờ): ban ngày thuộc dương, từ 6 giờ sáng đến 12 giờ trưa là phần dương của dương. Từ 12 giờ đến 18 giờ là phần âm của dương; ban đêm thuộc âm, từ 18 giờ – 24 giờ là phần âm của âm từ 0 giờ đến 6 giờ là phần dương của âm.

Trên lâm sàng, khi cho thuốc làm ra mồ hôi để hạ sốt, cần chú ý tránh cho ra mồ hôi nhiều gây mất nước và điện giải, về triệu chứng thấy xuất hiện các chứng hư thực, hàn nhiệt lẫn lộn. Về cấu trúc của cơ thể, tạng thuộc âm như can, thận có can âm (can huyết), can dương (can khí), thận âm (thận thuỷ), thận dương (thận hoả) v.v…
c) Bản chât và hiện tượng:
Thông thường bản chất thường phù hợp với hiện tượng, khi chữa bệnh người ta chữa vào bản chất bệnh: như bệnh hàn dùng thuốc nhiệt, bệnh nhiệt dùng thuốc hàn.

Nhưng có lúc bản chất không phù hợp với hiện tượng gọi là sự “thật giả” (chân giả) trên lâm sàng, khi chẩn đoán phải xác định cho đúng bản chất để dùng thuốc chữa đúng nguyên nhân.
Thí dụ: bệnh truyền nhiễm gây sốt cao (chân nhiệt) do nhiễm độc gây truỵ mạch ngoại biên làm chân tay lạnh, ra mồ hôi lạnh (giả hàn) phải dùng thuốc mát để chữa bệnh.
– Bệnh ỉa chảy do lạnh (chân hàn) do mất nước, mất điện giải gây nhiễm độc thần kinh làm co giật, sốt (giả nhiệt) phải dùng các thuốc nóng, ấm để chữa nguyên nhân.
Các quy luật âm dương, các phạm trù của nó được biểu hiện bằng một hình tròn có hai hình cong chia diện tích làm hai phần bằng nhau: một phần là âm, một phần là dương. Trong phần âm có nhân dương và trong phần dương có nhân âm (xem hình ).

Học thuyết âm dương
Học thuyết âm dương

3. Ứng dụng trong y học
3.1. Về cấu tạo cơ thế và sinh lý
Âm: tạng, kinh âm, huyết, bụng, trong, dưới v.v…
Dương: phủ, kinh dương, khí, lưng, ngoài, trên v.v…
– Tạng thuộc âm, do tính chất trong âm có dương nên còn phân ra phế âm, phế khí; thận âm, thận dương; can huyết, can khí; tâm huyết, tâm khí. Phủ thuộc dương như vì trong dương có âm nên có vị âm và vị hoả…
– Vật chất dinh dưõng thuộc âm, cơ năng hoạt động thuộc dương.
3.2. Về quá trình phát sinh và phát triển của bệnh tật
a) Bệnh tật phát sinh ra do sự mất thăng bằng về âm dương trong cơ thể được biểu hiện bằng thiên thắng hay thiên suy:
– Thiên thắng: dương thắng gây chứng nhiệt: sốt, mạch nhanh, khát nước, táo, nước tiểu đỏ; âm thắng gây chứng hàn: người lạnh, tay chân lạnh, mạch trầm, ỉa lỏng nước tiểu trong v.v…
– Thiên suy: dương hư như các trường hợp não suy, hội chứng hưng phấn thần kinh giảm; âm hư: như mất nước, điện giải, hội chứng ức chế thần kinh giảm.
b) Trong quá trình phát triển của bệnh, tính chất của bênh còn chuyến hoá lẫn nhau giữa hai mặt âm dương. Bệnh ở phần dương ảnh hưỏng tới phần âm (dương thắng tắc âm bệnh). Thí dụ sốt cao kéo dài sẽ gây mất nước. Bệnh ở phần âm ảnh hưởng tới phần dương (âm thắng tắc dương bệnh). Thí dụ ỉa lỏng, nôn mửa kéo dài mất nước, điện giải làm nhiễm độc thần kinh, gây sốt, co giật thậm chí gây truỵ mạch (thoát dương)
c) Sự mất thăng bằng của âm dương gây ra những chứng bệnh ở những vị trí khác nhau của cơ thê tuỳ theo vị trí đó ở phần âm hay dương.
Dương thịnh sinh ngoại nhiệt: sốt, người và tay chân nóng, vì phần dương của cơ thể thuộc biểu, thuộc nhiệt.
Âm thịnh sinh nội hàn: ỉa chảy, người sợ lạnh, nước tiểu trong dài vì phần âm thuộc lý thuộc hàn.
Âm hư sinh nội nhiệt: như mất nước, tân dịch giảm gây chứng khát nước, họng khô, táo, nước tiểu đỏ v.v…
Dương hư sinh ngoại hàn: sợ lạnh, tay chân lạnh vì phần dương khí ở ngoài bị giảm sút.
3.3. Về chẩn đoán bệnh tật
a) 
Dựa vào 4 phương pháp khám bệnh: nhìn (vọng), nghe (văn), hỏi (vấn) sờ nắn, xem mạch (thiết) để khai thác các triệu chứng thuộc hàn hay nhiệt, hư hay thực của các tạng phủ kinh lạc.
b) Dựa vào 8 cương lĩnh để đánh giá vị trí nông sâu của bệnh, tính chất của bệnh, trạng thái người bệnh và xu thế chung nhất của bệnh tật (biểu lý, hư thực, hàn nhiệt và âm dương) trong đó âm và dương là 2 cương lĩnh tổng quát nhất gọi là tổng cương: thường bệnh ở biểu, thực, nhiệt thuộc dương; bệnh ở lý, hư, hàn thuộc âm.
c) Dựa vào tứ chẩn để khai thác triệu chứng và căn cứ vào bát cương bệnh tật được quy thành các hội chứng thiên thắng hay thiên suy về âm dương của các tạng phủ, kinh lạc v.v…
3.4. Về chữa bệnh và các phương pháp chữa bệnh
a)Chữa bệnh là điều hoà lại sự mất thăng bằng về âm dương của cơ thể tuỳ theo tình trạng hư thực, hàn, nhiệt của bệnh bằng các phương pháp khác nhau: thuốc, châm cứu, xoa bóp, khí công v.v…
b) Về thuốc được chia làm hai loại:
– Thuốc lạnh, mát (hàn, lương) thuộc âm để chữa bệnh nhiệt thuộc dương.
– Thuốc nóng, ấm (nhiệt, ôn) thuộc dương để chữa bệnh hàn thuộc âm.
c) Về châm cứu:
– Bệnh nhiệt dùng châm, bệnh hàn dùng cứu; bệnh hư thì bổ, bệnh thực thì tả.
Bệnh thuộc tạng (thuộc âm) thì dùng các huyệt Du sau lưng (thuộc dương); bệnh thuộc phủ (thuộc dương) thì dùng các huyệt Mộ ở ngực, bụng (thuộc âm), theo nguyên tắc: “theo dương dẫn âm, theo âm dẫn dương”.

(nguồn vatm.edu.vn)

Hướng dẫn điều trị và theo dõi bệnh xơ gan

Hình minh họa - nguồn Internet

Bệnh xơ gan là gì?

Xơ gan hay gọi chính xác hơn là chai gan, là giai đoạn sau của viêm gan mạn. Xơ gan là hậu quả của việc lá gan bị các tác nhân gây hại cho gan tấn côngtrong thời gian lâu dài dẫn đến tế bào gan bị hư hại, chết dần và tạo ra các mô sẹo, không phục hồi được làm cho gan chai cứng dần dần và không thực hiện được những chức năng bình thường của gan (suy gan).

Hình minh họa - nguồn Internet
Hình minh họa – nguồn Internet
Điều trị nguyên nhân:
  • Ngưng uống bia, rượu hoàn toàn. Việc ngừng uống rượu giúp cho người bệnh được ổn định lâu dài hơn.
  • Điều trị siêu vi B, C nếu xơ gan do nhiễm siêu vi B, C.
  • Nếu xơ gan tim, điều trị suy tim sẽ cải thiện được chức năng gan.
Điều trị triệu chứng:
  • Phù chân, báng bụng: nằm nghỉ tại giường sẽ giúp thận lọc tốt hơn, tiều nhiều hơn.
  • Hạn chế muối: không thêm nước tương, nước mắm hoặc rắc thêm muối vào thức ăn. Hạn chế thức ăn chế biến sẵn, thức ăn bán ngoài tiệm, thức ăn đóng hộp. không ăn các loại mắm, khô.
  • Dùng thuốc lợi tiểu: cần có ý kiến của bác sĩ để tránh làm giảm thể tích máu, rối loạn điện giải, suy thận, hôn mê. Mục tiêu giảm cân nặng 0,5kg/ngày ở người bệnh báng bụng không có phù chân và giảm 1kg/ngày ở người bệnh báng bụng và phù chân.
  • Truyền albumin.
  • Giảm triệu chứng ngứa bằng cholestyramine.
  • Ở người bệnh xơ gan ứ mật cần bổ sung các vitamine tan trong mỡ như A, D, E, K.
  • nếu người bệnh có ói ra máu hay đi cầu phân đen, đây là một cấp cứu đe dọa tính mạng cần nhập viện ngay để có can thiệp điều trị.
Phòng ngừa biến chứng xuất huyết tiêu hóa do giãn vỡ các tĩnh mạch thực quản:
  • Dùng thuốc chẹn beta (Propranolol, Nadalol) người bệnh phải dùng thuốc liên tục, nếu tự ngưng thuốc đột ngột biến chứng ói ra máu sẽ dễ xảy ra hơn.
  • Ngoài ra có thể nhập viện để làm nội soi can thiệp: chích xơ, cột thắt tĩnh mạch thực quản giãn. Liệu pháp này có thể thực hiện lặp lại nhiều lần.
CHẾ ĐỘ DINH DƯỠNG Ở NGƯỜI BỆNH XƠ GAN:
  • Hạn chế muối: từ giảm lượng Natri đến ngưng hoàn toàn Natri đưa vào bằng đường ăn uống.
  • Nước uống cần khoảng 1 – 1,5 lít/ngày.
  • Chất béo: cử ăn da, mỡ động vật, phủ tạng động vật, súp xương. Thay mỡ động vật bằng dầu hoặc bơ thực vật.
  • Chất đạm: cần hạn chế đạm động vật mà nên dùng đạm thực vật như đậu nành, đậu hũ sẽ dễ tiêu hóa hơn. Khi có suy gan hoặc lơ mơ, hôn mê thì cần phải ngưng đạm hoàn toàn.
  • Tránh ăn cá có nhiều xương và các loại thức ăn cứng khó tiêu khi người bệnh vừa mới qua cấp cứu xuất huyết tiêu hóa, tốt hơn hết là người bệnh nên ăn chế độ ăn loãng, dễ tiêu.
  • Chất bột đường: cần được cung cấp đầu đủ để bảm đảm năng lượng cần thiết và tránh những cơn hạ đường huyết do giảm khả năng dự trữ glycogen.
  • -Rau và trái cây tươi là nguồn cung cấp vitamin và khoáng chất cần thiết. Ăn nhiều rau còn giúp tránh táo bón, người xơ gan không nên để bị táo bón vì sẽ làm ứ đọng chất ure và dễ dẫn đến hôn mê.
  • Ngoài ra, yaourt, chất men lactobacillus acidophilus còn có thể làm hóa giải NH3 trong phân làm giảm yếu tố thúc đẩy hôn mê gan.
  • Hạn chế các chất kích thích, thức ăn chua, cay vì người bệnh xơ gan thường hay bị viêm dạ dàykèm theo.
  • Nên chọn thức ăn hợp với khẩu vị, chia thành nhiều bữa ăn nhỏ trong ngày.
  • Ở người bệnh nhiễm siêu vi viêm gan C, nếu thấy lượng sắt hoặc ferritin trong máu tăng cao thì phải hạn chế thuốc bổ máu có chất sắt, không nên ăn các loại thực phẩm chứa nhiều chất sắt như: thịt bò, phủ tạng động vật (tim, gan,…), rau dền, sà lách xoong, rau muống, mè…
  • Nghỉ ngơi và tránh lao động mệt nhọc. người bệnh vẫn có thể làm các công việc bình thường hàng ngày nhưng đừng gắng sức.

(BS CKII Lê Văn Hải – Trưởng Khoa Khám Bệnh Viện Y Dược Học Dân Tộc)

Y học cổ truyền góp phần vào điều trị chứng mất ngủ

Ảnh hinh họa

Không có gì tệ hơn khi ai đó bị mất ngủ. Mất ngủ còn gọi là rối loạn giấc ngủ; dù khó đi vào giấc ngủ, không duy trì đủ tình trạng ngủ hay thức dậy quá sớm đều ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, đặc biệt xảy ra trên những người trong độ tuổi lao động. Khi mất ngủ, cơ thể không có thời gian bù đắp lại năng lượng mất đi trong ngày làm việc trước đó. Trung bình một người lớn ngủ từ 4 đến 8 giờ, nhưng đánh giá giấc ngủ không chỉ dựa vào số giờ ngủ mà còn tuỳ thuộc vào chất lượng giấc ngủ, tức là cảm giác thoải mái và đủ sức để phục vụ cho một ngày làm việc tiếp theo. Nếu một người dù ngủ được 8 giờ một đêm nhưng sáng hôm sau vẫn có cảm giác mệt mỏi, uễ oãi thì coi như giấc ngủ chưa đạt chất lượng. Ngược lại, dù ngủ chỉ 5 giờ nhưng cơ thể sảng khoái và vui vẻ để bắt đầu một ngày làm việc mới thì giấc ngủ đạt yêu cầu.

Ảnh hinh họa
Ảnh hinh họa

1. Các yếu tố thuận lợi và nguyên nhân của mất ngủ

1.1. Yếu tố bên ngoài:

–         Căng thẳng trong công việc hoặc tài chính

–         Xung đột với người chung quanh

–         Sự cố lớn trong cuộc sống

–         Mệt mỏi do công việc hoặc làm việc theo ca – kíp

1.2. Bệnh nội khoa:

–         Tim mạch: mạch vành, loạn nhịp tim, suy tim

–         Hô hấp: hen phế quản, ngưng thở khi ngủ

–         Đau mạn tính

–         Bệnh nội tiết: đái tháo đường, cường giáp

–         Tiêu hoá: viêm – loét dạ dày, viêm dạ dày – thực quản trào ngược

–         Thần kinh: Parkinson, động kinh

–         Phụ nữ đang mang thai

1.3. Tâm thần kinh:

–         Rối loạn tính cách: trầm cảm, loạn thần

–         Rối loạn lo âu

–         Hội chứng cai thuốc, rượu

1.4. Mất ngủ do sử dụng một số thuốc:

–         Thuốc chống động kinh

–         Thuốc hạ huyết áp nhóm ức chế giao cảm

–         Thuốc lợi tiểu

–         Nhóm steroid, thuốc hưng phấn thần kinh.

Tuỳ theo mức độ và nguyên nhân của mất ngủ, Y học hiện đại có nhiều thế hệ thuốc từ thuốc kháng histamine tại thụ thể H 1 thế hệ 1 đến thuốc an thần gây ngủ để điều trị chứng mất ngủ tuy nhiên nếu sử dụng kéo dài thường có những phản ứng ngoại ý nhất định.

2. Y học cổ truyền với các biện pháp không dùng thuốc cũng như dùng thuốc có thể giúp cải thiện đáng kể giấc ngủ:

2.1. Không dùng thuốc:

–         Tâp thói quen nên ngủ và thức vào một thời điểm nhất định trong đêm,

–         Không nên ngủ vào buổi trưa quá dài (trung bình 15 – 30 phút là đủ),

–         Phòng ngủ cần yên tĩnh, thoáng (không quá nhiều vật, sách vỡ…), ánh sáng phù hợp (không quá sáng),

–         Không ăn quá no hoặc ngược lại bị quá đói sẽ ảnh hưởng đến giấc ngủ,

–         Tránh uống trà, cà phê đậm đặc vài giờ trước khi ngủ,

–         Tập thở sâu, đặc biệt thở cơ hoành (thở vào sâu, bụng di động theo nhịp thở trong khi hạn chế cử động của lồng ngực: vai không nhấc lên, cơ cổ, cơ ngực không co kéo mạnh).

–         Tập thư giãn: nằm thả lỏng các cơ từ mặt, cổ, ngực, bụng, tay, chân; không nghĩ ngợi miên man; tập trung tư tưởng theo dõi vào động tác hít vào thở ra đều đặn; tự nhủ rằng tay chân và toàn thân tôi có cảm giác nặng ấm. Thực hiện tốt thư giãn, giấc ngủ sẽ dễ dàng có chất lượng.

–         Day ấn một số huyệt có tác dụng dịu sự căng thẳng và an thần như: Huyệt Ấn đường (điểm giữa hai đầu trong chân mày), huyệt An miên (điểm sau trái tai khoảng 1,5 cm), huyệt Nội quan (điểm giữa 2 gân cơ trên nếp gấp cổ tay khoảng 3 cm), huyệt Tam âm giao (điểm trên chỗ cao nhất của mắt cá trong khoảng 4 cm, sát bờ sau xương chày), huyệt Túc tam lý (dưới góc dưới xương bánh chè khoảng 4 cm, phía ngoài bờ trước xương chày).

–         Xoa nóng bàn chân cả mặt lòng và mặt lưng, hoặc ngâm bàn chân trong nước ấm khoảng 50 0c.

2.2. Sử dụng thuốc: một số dược liệu dễ tìm quanh ta có tác dụng trấn tĩnh giúp dễ ngủ:

–         Rau nhút: Rau nhút non được sử dụng nấu canh với cá, thịt, tôm

–         Củ sen: là phần cây nằm dưới bùn có tác dụng an thần, bổ dưỡng

–         Hạt sen: có nhiều chất dinh dưỡng và an thần kinh

–         Tâm sen: phần lõi màu xanh nằm giữa Hạt sen, có tác dụng chống hồi hộp, mất ngủ.

–         Củ súng: có lợi cho người suy nhược tâm – thần kinh, rối loạn giấc ngủ.

–         Nhãn nhục: nấu nước hoặc kết hợp Hạt sen, Táo nấu chè giúp dẽ ngủ.

–         Lá vong nem: có tác dụng an thần mạnh khi hấp vào nồi cơm hoặc luộc hay nấu chung với vài vị thuốc khác.

–         Lạc tiên: bộ phận dùng là Lá và Thân, có tác dụng an thần kinh, giúp tăng chất lượng giấc ngủ.

–          Ăn hoặc uống nước ép quả Cà chua, Cà rốt, Quả Bơ, trái khóm, chuối… vì có chứa nhiều vitamin B2, B3, B6, C… giúp cơ thể tạo được chất Serotonin, một neurohormone giúp ngủ.

Tuy nhiên, nếu áp dụng các biện pháp trên vẫn chưa cải thiện được giấc ngủ. Chúng ta cần tìm hiểu đánh giá tinh trạng cụ thể của người bệnh, YHCT gọi là Biện chứng luận trị, nghĩa là tìm ra cơ quan quan nào của cơ thể hiện bất ổn, tổng trạng tốt hay suy nhược để chọn vị thuốc hoặc bài thuốc phù hợp.

Bs Trần Văn Năm (Viện YDHDT TP.HCM)

Danh y Hải Thượng Lãn Ông

Hải thượng lãn ông
Hải thượng lãn ông

Hải Thượng Lãn Ông tên hiệu là Lê Hữu Trác tên thường là Lê Hữu Chẩn, là một đại y tôn của nước ta.

 

Sinh ngày 12/11/1724 năm Giáp Thìn về cuối đời Hậu Lê, ở thôn Văn Xá, làng Lưu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương, (nay là thôn Thanh Xá, xã Hoàng Hữu Nam, huyện Yên Mỹ, Hải Hưng). Mất ngày rằm tháng Giêng năm Tân Hợi, niên hiệu Quang Trung thứ 4 (1791) tại xã Tình Diễm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Cha là Lê Hữu Mưu đỗ tiến sĩ, làm Thượng Thư đời Lê Dụ Tôn, mẹ quê ở Bàu Thượng, làng Tình Diễm, Hương Sơn, Hà Tĩnh. Hồi nhỏ theo cha đi học ở Thăng Long, năm 1739 cha mất, lớn lên gặp thời loạn, vua Lê hư vị, Chúa Trịnh lộng quyền, các nơi đều nổi dậy chống đối, có phen Lãn ông cũng ra cầm quân dẹp loạn, nhưng vì chán ghét cuộc chém giết tương tàn ấy, nên nhân có tin người anh ở Hương Sơn mất, ông bèn viện cớ về quê nuôi mẹ. Nhân bị đau ốm, Lãn ông mới tìm đến vị Lương y Trần Độc ở núi Thành, xã Hương Cần, huyện Thanh Chương, Nghệ An để chữa bệnh. Trong thời gian ở đó hơn 2 năm, Lãn ông đã nghiên cứu các sách y học kinh điển nhất là bộ Phùng Thị Cẩm Nang  và cùng họ Trần bàn luận về y học.

Bấy giờ có Hải Quận Công biết Lãn Ông văn võ kim toàn muốn mời ra cầm quân lần nữa, nhưng vì chán ghét chiến tranh, không ham danh lợi Lãn Ông đã cương quyết chối từ, trở về Hương Sơn nghiên cứu y học và chữa bệnh.

Năm 1760, mẹ mất, lúc đó tuy mới 35 tuổi đã nổi tiếng là danh y, ngoài việc chữa bệnh, Hải Thượng Lãn Ông đã mở lớp dạy cho đồ đệ. Suốt hai mươi mấy năm lưu tâm nghiên cứu, đem hết tài năng và tinh thần tận tụy chữa bệnh và giảng dạy. Hải Thượng đã lĩnh hội được nguyên lý uyên thâm của Đông y, thu lượm bao kinh nghiệm phong phú về chẩn trị, đúc kết lại thành một hệ thống kết hợp chặt chẽ lý luận với thực tiễn lâm sàng trong một tác phẩm rất lớn và rất có giá trị là bộ Y Tông Tâm Lĩnh. Ngoài ra lại còn viết tập”Vệ Sinh Yếu Quyết” và một bản gọi “Nữ Công Thắng Lãm”.

Năm 1782, đời Lê Hiến Tông, Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 43, bấy giờ đã ngoài 60 tuổi Hải Thượng bị triệu về Kinh để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán con Chúa Trịnh Sâm.

Ở triều đình, bị các ngự y ganh tị gièm pha, mãi sau Hải Thượng mới được phép chữa nên không có kết quả. Nhân ở kinh đô một năm ông tìm mọi cách để in bộ sách của mình nhưng không thành công, lại có ý tìm lại các vị danh y tại đó để trao đổi học thuật nhưng chỉ thu lượm được một số bài thuốc kinh nghiệm hoặc gia truyền. Hải Thượng đã kể lại cuộc hành trình này ở tập Thượng Kinh Ký Sự, một tài liệu văn học có giá trị phản ánh đời sống của xã hội Việt Nam hồi đó.

Lãn Ông trở về Hương Sơn tiếp tục nghiên cứu, chữa bệnh, giảng dạy và hoàn thành bộ Y Tông Tâm Lĩnh, bộ sách Đông y lớn nhất và quí nhất ở nước ta: gồm 63 cuốn (nay chỉ còn 55 cuốn) do Vũ Xuân Hiên thu thập lại và đem in năm 1866.

Nội dung bao gồm y lí, chẩn trị, phương dược, trình bày có hệ thống, kết hợp lý luận với thực tiễn, phân tích chứng minh rõ ràng, như bàn về Thủy Hỏa thì có cuốn Huyền Tẩn Phát Vi, bàn về khí huyết có cuốn Khôn Hóa Thái Chân, trị các bệnh ngoại cảm thì có Ngoại Cảm Thông Trị, biện biệt tạp chứng thì có Bách Bệnh Cơ Yếu, chẩn đoán thì có Y Gia Quan Miện, biện luận thì có Đạo Lưu Dư Vận, vận khí có Vận Khí Bí Điển … cho đến các loại phụ khoa (Phụ Đạo Xán Nhiên), nhi khoa (Ấu Ấu Tu Tri) đều viết một cách tinh thông, giầu kinh nghiệm.

Tuy chịu ảnh hưởng của y học Trung Hoa nhất là Phùng Thị nhưng Lãn Ông đã có óc sáng tạo vận dụng y lí hợp với hoàn cảnh khí hậu và thể chất của người Việt Nam và đã sử dụng thuốc Nam để chữa bệnh, như ở các cuốn Lĩnh Nam Bản Thảo, Bách Gia Trân Tàng và Hành Giản Trân Nhu. Nhận định về Lĩnh Nam không có thương hàn, Lãn Ông đã lập ra nhiều phương thang mới ghi  ở cuốn Ngoại Cảm Thông Trị. Đặc biệt trong 2 cuốn Dương Án và Âm Án, ghi lại những y án và phân tích về những bệnh đã chữa khỏi hoặc không chữa được. Cuốn Châu Ngọc Cách Ngôn để lại cho chúng ta những điều căn dặn rất bổ ích về chẩn đoán trị liệu và những sai lầm tai hại cần tránh.

Thân thế và sự nghiệp của Lãn Ông đã có một ảnh hưởng rất lớn đối với giới Đông y Việt Nam cả về mặt đạo đức và chuyên môn.

Bộ sách Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh gồm 28 tập, 66 quyển, nội dung gồm:

1. Tập đầu: Có bài tựa, Phàm lệ mục lục và Y nghiệp phần chương nói về nghề y, thái độ tư cách, khái quát bộ sách và tập thơ Y Lí Thâu Nhàn.

2- Tập Nội Kinh Yếu Chỉ: nêu khái yếu về cuốn kinh điển Nội kinh.

3. Tập Y Gia Quan Miện:  Khái niệm về Âm dương, Ngũ hành, quẻ số, can chi, mạch yếu.

4. Tập Y Hải Cầu Nguyên: Soạn những lời thiết yếu của các tiên hiền, chú giải kỹ để làm rõ những điều huyền bí.

5. Tập Huyền Tẫn Phát Vi:  Nói rõ công dụng mở đầu của ‘Tiên thiên’, máy Âm dương, khiếu Thủy Hỏa và cách phân biệt chứng trạng, dùng thuốc.

6- Tập Khôn Hóa Thái Chân: gồm có công dụng nuôi sống của ‘Hậu thiên’ nguồn gốc của khí huyết, cách luận bệnh xử phương.

7- Tập Đạo Lưu Dự Vận:  đem các ý nghĩ còn nghi hoặc, chưa rõ nghĩa trong các sách, cùng với những chỗ người xưa chưa nói đến để biện luận rõ ràng mà bổ sung vào những chỗ còn thiếu sót.

8. Tập Vận Khí Bí Điển:  chọn lấy bài phú Chiêm Vận, phong giác của họ Vương và thiên Ngọc Lịch, ngũ hành, chia ra cách xem mây, xem gió, chủ vận, khách vận, chủ khí, khách khí, lập thành từng cách nghiệm đoán.

9. Tập Dược Phẩm Vậng Yếu:  chọn lấy 150 vị thuốc thường dùng trong Bản thảo, chia làm 5 bộ để tiện tra khảo.

10- Tập Lĩnh Nam Bản Thảo:  soạn các vị thuốc cây cỏ ở Lĩnh Nam (bao gồm Việt Nam và miền Nam Trung quốc), chia thành môn loại, chú thích tính chất, cách chữa, cách thu hái…

11- Tập Ngoại Cảm Thông Trị bàn về nước Nam ta không có bệnh thương hàn, mắc bệnh ngoại tà, đều là bệnh cảm mạo, tác giả không theo hình chứng lục kinh của Thương hàn luận nhưng Lãn Ông đã sáng chế ra 3 phương giải Biểu, 6 phương hòa Lý để chữa tất cả các bệnh ngoại cảm.

12- Tập Bách Bệnh Cơ Yếu:  chọn lấy các bệnh, môn trong sách kinh điển, xét nguyên nhân, cơ chế bệnh, phân biệt chứng  trạng hư thực, tiên lượng cách chữa, xử phương, dụng dược.

13. Tập Y Trung Quan Miện: soạn những điều hay mà tác giả đã lĩnh hội được ý nghĩa sâu sắc, những điểm cốt yếu.

14. Tập Phụ Đạo Xán Nhiên” chọn lọc trong các sách Phụ khoa những vấn đề về kinh nguyệt, đới hạ, thai, sản… lấy những điểm thiết thực cốt yếu, bỏ chỗ rườm rà… đồng thời bổ sung thêm những ý kiến của tác giả.

15. Tập “Tọa Thảo Lương Mô”, tác giả thấy trong nhiều sách trước đó về Sản khoa viết rườm rà, được điều nọ, mất điều kia nên ông soạn, sắp xếp lại, bổ sung hoàn chỉnh hơn.

16. Tập Ấu Ấu Tu Tri:  tác giả thấy trong nhiều sách Nhi khoa trước đó viết rời rạc, không thống nhất nên tác giả đã soạn lại, xét nguyên nhân cơ chế bệnh sinh, phân biệt chứng trạng cách chữa, xử phương làm chỗ cốt yếu  và thêm phần tâm đắc.

17. Tập Mộng Trung Giác Đậu: trình bày đầy đủ các kiến thức về bệnh Đậu… và bổ sung thêm kinh nghiệm đặc sắc phong phú.

18. Tập Ma Chẩn Chuẩn Thằng: soạn các phương pháp và kinh nghiệm tâm đắc trong điều trị bệnh sởi.

19. Tập Tâm Đắc Thần Phương:  trong khi lâm lâm sàng, tác giả đã hết sức suy nghĩ chọn ra nhiều phương thuốc thần diệu trong Phùng Thị Cẩm Nang.

20. Tập “Hiệu Phỏng Tân Phương: trong khi lâm sàng tác giả đã hết sức suy nghĩ lập ra nhiều phương thuốc đáp ứng với tình thế khó khăn.

21. Tập Bách Gia Trân Tàng: tiếp thu bí phương của ông ngoại truyền lại cùng thu thập các phương thuốc quý, chữa được nhiều trường hợp khó.

22. Tập Hành Giản Trân Nhu: chọn lấy các bài thuốc có những vị thuốc Nam, thuốc Bắc thông thường, dễ kiếm, tiện dùng.

23. Tập Y Phương Hải Hội: tập hợp soạn các thang tễ, hoàn tễ trong các sách, rườm rà thì giảm đi, thiếu thì bổ sung thêm.

24. Tập Y Án, Dương Án: Tập hợp tâm đắc suy nghĩ về những trường hợp nguy nan mà chữa thành công.

25. Tập Y Án, Âm Án: tập hợp những bệnh án bệnh nặng, khó, tình thế tuyệt vọng dù cố hết sức mà không kết quả để rút kinh nghiệm.

26. Tập Truyền Tâm Bí Chỉ hoặc còn gọi là Châu Ngọc Cách Ngôn, biện luận rõ ràng đầy đủ những nghĩa lý sâu xa trong sách, những chỗ tinh hoa của y thuật.

27. Tập Vĩ. (cuối) là cuốn Thượng Kinh Ký Sự, thuật lại cuộc lên kinh thành chữa bệnh cho Chúa Trịnh. Chỉ với giá trị sử học, văn học của cuốn ký sự này đã làm cho sự nghiệp văn hóa của Hải Thượng Lãn ông nổi danh không kém gì sự nghiệp y học của tác giả. Về sau đă thu thập được nốt 2 cuốn là Nữ Công Thắng Lãm và Vệ Sinh Yếu Quyết.

28. Tập của Pho Sách Bách Khoa Thư về Đông y “Lãn ông tâm lĩnh” là 28 viên ngọc quý, 28 vị sao (nhị thập bát tú) của bầu trời Y học phương Đông.

(nguồn vatm.edu.vn)

Viện y dược học dân tộc – Khám bệnh, phát thuốc miễn phí và tặng quà cho bà con xã An Phước – Huyện Mang Thít – Tỉnh Vĩnh Long

Viện Y Dược Học Dân Tộc khám bệnh cho bà con

Ngày 16/8, Tỉnh Đoàn Vĩnh Long phối hợp với Bệnh viện Mắt, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Bệnh viện Từ Dũ và Viện Y Dược học Dân tộc Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức hành trình nhân ái “Vì sức khỏe cộng đồng”. Gần 100 thầy thuốc trẻ tham gia khám chữa bệnh cho 900 bệnh nhân tại 2 huyện Mang Thít và Trà Ôn.

Bệnh nhân ngồi chờ tới lượt khám.

Đoàn đã mổ mắt miễn phí cho 100 bệnh nhân (Mang Thít), khám nội khoa tổng quát và phát thuốc miễn phí cho 250 bệnh nhân (xã An Phước và Chánh An, Mang Thít), chăm sóc răng miệng, khám sản phụ khoa và khám nội khoa tổng quát, phát thuốc miễn phí cho 550 bệnh nhân (xã Tân Mỹ, Trà Ôn).

Dịp này, đoàn cũng dành tặng 200 phần quà cho các hộ nghèo, gia đình chính sách, tặng 3.000 quyển tập cho học sinh nghèo tại địa phương.

Đây là hoạt động tình nguyện trong Chiến dịch Kỳ nghỉ hồng năm 2014 nhằm phát huy tinh thần xung kích, tình nguyện của tuổi trẻ cùng với địa phương làm tốt công tác an sinh xã hội, đặc biệt là trong vấn đề chăm sóc sức khỏe nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.

 

Điều dưỡng đo huyết áp cho bệnh nhân .

IMG_32939363597942

IMG_32860542548441

Bác sĩ khám bệnh, kê toa thuốc .

Phát thuốc cho bệnh nhân.

Điều trị viêm gan bằng Đông y

Nghệ, cây chó đẻ, cúc gai, atisô có được dùng trong điều trị viêm gan.
Hiện nay, có rất nhiều bệnh có thể chữa trị bằng Đông y, Tây y hoặc Đông – Tây y kết hợp trong đó có bệnh viêm gan. Tuy nhiên sử dụng đông y như thế nào mới đúng và mang lại hiệu quả?
Gan là cơ quan nội tạng lớn nhất trong cơ thể (1,2 – 1,3 kg), có khả năng tự tái tạo rất lớn khi bị tổn thương. Tuy nhiên, khi bị gan bị tổn thương từ 70-80% sẽ dẫn đến viêm gan. Viêm gan do các tế bào gan bị phá huỷ, chết đi do nhiều nguyên nhân như viêm gan siêu vi (A, B, C, E…), uống nhiều bia rượu, hút thuốc lá, ô nhiễm môi trường hoặc ăn nhiều thức ăn độc hại.
Nhằm giúp cộng đồng hiểu rõ hơn về việc sử dụng Đông y trong điều trị bệnh viêm gan, Trung tâm Truyền thông và Giáo dục Sức khoẻ TP.HCM đã tổ chức buổi  sinh hoạt chuyên đề “Đông Y trong điều trị viêm gan” do Bác sĩ CKII Lê Văn Hải – Trưởng khoa Khám bệnh Viện Y Dược học Dân tộc TP.HCM hướng dẫn.
Các bài thuốc chữa viêm gan
Theo Đông y, điều trị bệnh lý viêm gan có nhiều phương pháp khác nhau nhưng cần đến khám bệnh tại các phòng khám đông y, bệnh viện y học cổ truyền có uy tín để được hướng dẫn đúng cách.
Trong phương pháp điều trị bằng Đông y, quan điểm “Phòng bệnh hơn chữa bệnh” luôn là phương châm hàng đầu. Bác sĩ Lê Văn Hải cho rằng: “Phải điều trị trước khi bệnh xuất hiện, đừng để đến khi bệnh có biểu hiện rõ ràng thì đã vào giai đoạn muộn rất khó điều trị thậm chí không thể cứu được nữa”.
Nghệ, cây chó đẻ, cúc gai, atisô có được dùng trong điều trị viêm gan.
Nghệ, cây chó đẻ, cúc gai, atisô có được dùng trong điều trị viêm gan.
Điều trị viêm gan dù bằng phương pháp Đông hay Tây y đều phải xác định rõ nguyên nhân gây bệnh, từ đó tuỳ vào từng giai đoạn bệnh mà ta có những bài thuốc khác nhau. Với viêm gan giai đoạn nhẹ và cấp tính, có thể sử dụng một số  cây thuốc nam như:
Atiso có tác dụng bảo vệ tế bào gan, tăng tiết mật, thông mật lợi tiểu, hạ cholesterol trong máu.
Cúc gai kết hợp cùng thành phần từ quả cây ngũ vị tử có tác dụng hạ men gan.
Diệp hạ châu (Cây chó đẻ răng cưa) đã được nghiên cứu ngoài tác dụng hạ men gan còn được sử dụng chữa bệnh gan nhiễm mỡ, điều trị viêm gan siêu vi B.
Nghệ có tác dụng bảo vệ tế bào gan, phòng ngừa ung thư tế bào gan.
Ngoài ra, nếu người bệnh viêm gan có biểu hiện vàng da và niêm mạc có thể dùng các vị thuốc như  nhân trần 20g, chi tử 12g, đại hoàng 8g sắc chung uống để điều trị.
Bác sĩ Lê Văn Hải cho biết, khi bệnh ở mức độ nặng hơn như viêm gan mạn tính do siêu vi, xơ gan thì cần phối hợp rất nhiều vị thuốc mới có hiệu quả điều trị. Lúc này không nên nghe theo kinh nghiệm dân gian tự ý sử dụng cây thuốc mà cần đến gặp bác sĩ chuyên khoa để được thăm khám, chẩn đoán chính xác và điều trị kịp thời.
Lưu ý khi sử dụng Đông – Tây y kết hợp
Trong điều trị thuốc Đông – Tây y kết hợp cần lưu ý đến sự tương tác giữa 2 loại thuốc này. Tuỳ loại thuốc mà khi kết hợp có những tương tác có lợi hoặc có hại cho cơ thể cần được lưu ý.
Khi sử dụng nhóm thuốc kháng sinh, kháng siêu vi kết hợp với nhóm thuốc Đông y có tác dụng thanh nhiệt giải độc sẽ giúp tăng tác dụng của nhưng loại thuốc trên. Lúc này có thể giảm bớt liều lượng thuốc kháng sinh, kháng siêu vi để ngăn ngừa những tác dụng phụ khi sử dụng thuốc.
Tuy nhiên, nếu sử dụng chung các loại thuốc chống ngưng tụ tiểu cầu , kháng đông (Thuốc chống đông máu) dùng trong điều trị tim mạch với các thuốc có tác dụng hoạt huyết (Tăng lưu thông máu ) của Đông y có thể gây xuất huyết, chảy máu. Ngoài ra dùng thuốc cầm máu sẽ làm giảm tác dụng của các loại thuốc phòng ngừa bệnh tim mạch có thể dẫn đến đột quỵ.
Bác sĩ Lê Văn Hải khuyến cáo: “Người bệnh cần được tư vấn sử dụng thuốc Đông – Tây y kết hợp để tránh đưa đến các trường hợp đáng tiếc hoặc làm bệnh tình diễn biến xấu đi”.
Ngoài ra, để việc điều trị có hiệu quả người bệnh cũng cần quan tâm đặc biệt tới vấn đề dinh dưỡng và ăn uống hằng ngày. Theo bác sĩ Hải, không nên ăn một loại thức ăn nào quá nhiều và quá lâu vì sẽ dẫn đến tình trạng mất cân đối dinh dưỡng trong cơ thể làm phát sinh bệnh tật.
Bác sĩ Lê Văn Hải cho biết, người bệnh cần ăn nhiều đạm, chất bột, ít chất béo, và tăng cường chất xơ cho cơ thể mỗi ngày. Không uống rượu bia trong khi điều trị viêm gan, tốt nhất nên bỏ hẳn để tránh các bệnh lý nặng hơn như xơ gan, ung thư gan.

Vào chùa Kỳ Quang học… mát-xa

Cứ hè tới, hàng chục người ở mọi miền lại tìm về ngôi chùa đó không phải để ăn chay, niệm Phật… mà là để học nghề mát-xa.

Nơi học là sảnh cầu nguyện của các Phật tử
Nơi học là sảnh cầu nguyện của các Phật tử

Lớp học mát-xa của chùa Kỳ Quang 2 (Quận Gò Vấp, TP HCM) chỉ tổ chức vào dịp hè, kéo dài trong 2,5 tháng.

Lịch học từ 8 - 10h sáng, chiều từ 14 - 16h
Lịch học từ 8 – 10h sáng, chiều từ 14 – 16h

Học viên không cần phải ghi chép, cũng không có giáo trình, chỉ học bằng tai, máy ghi âm, điện thoại,… bởi tất cả học viên đều là người khiếm thị.

Buổi chiều, các học viên học mát-xa, chia thành từng cặp để vừa tự học vừa thực hành
Buổi chiều, các học viên học mát-xa,
chia thành từng cặp để vừa tự học vừa thực hành
Buổi chiều, các học viên học mát-xa,
chia thành từng cặp để vừa tự học vừa thực hành

Đây là lớp học miễn phí, hướng nghiệp được chùa Kỳ Quang 2 kết hợp với Viện Y Dược học dân tộc TP HCM tổ chức.

Nghề mát-xa là 1 công việc thích hợp đối với người mù. Năm nay chùa nhận 70 người khiếm thị để dạy nghề.

Học viên đến từ nhiều vùng miền, đủ mọi lứa tuổi, có người đã ngoài 60 nhưng cũng có nhiều trẻ em.

Thầy Đoàn Diệp Trọng đến từ Viện y dược học dân tộc đang dạy phần mát-xa tay cho học viên
Thầy Đoàn Diệp Trọng đến từ Viện y dược học dân tộc
đang dạy phần mát-xa tay cho học viên
Thầy Đoàn Diệp Trọng đến từ Viện y dược học dân tộc
đang dạy phần mát-xa tay cho học viên

Sau thời gian học, các học viên sẽ thi kết thúc khóa, nếu đạt yêu cầu sẽ được Viện cấp chứng chỉ hành nghề. Thầy Võ Quang Hải (79 tuổi), chủ nhiệm lớp mát-xa trong suốt 12 khóa, chia sẻ:

‘Hầu hết những người khiếm thị tự tìm đến đây học, sau đó đều kiếm được việc làm ở các cơ sở mát-xa, bấm huyệt, y học cổ truyền với mức lương 2 – 3 triệu đồng/tháng.

Khóa này mới khai giảng nhưng vừa có 1 cơ sở sẵn sàng nhận người rồi’

(Nguồn zing.vn)

Niềm hi vọng của bệnh nhân xương thủy tinh – Cao cá sấu Hoa Cà

Từ đầu năm 2010 đến nay, Viện Y Dược học Dân tộc Tp. Hồ Chí Minh (Viện YDHDT) đã hợp tác với Công ty TNHH Cá sấu Hoa Cà nghiên cứu về tác dụng của các loại cao xương cá sấu với hệ xương con người để tìm ra một liệu pháp hỗ trợ điều trị bệnh xương thủy tinh, đem lại nguồn hi vọng lớn lao cho những bệnh nhân mắc căn bệnh hiểm nghèo này.

«…
Xương thủy tinh là một bệnh lí do tổn thương gen có chức năng tạo chất collagen trong cơ thể.
– Biểu hiện bệnh: xương dễ gãy, biến dạng khung xương, tầm vóc nhỏ, hạn chế hoặc không thể tự đi lại được.
Hiện nay, trên thế giới, xương thủy tinh được coi là căn bệnh nan y mà chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Trong khi bệnh nhân xương thủy tinh luôn gặp rất nhiều khó khăn trong việc đi lại, sinh hoạt do xương giòn, dễ gãy.

Tại Việt Nam, ông Tôn Thất Hưng, Giám đốc Công ty TNHH Cá sấu Hoa Cà, sau lần tình cờ đọc bài báo “Đôi chân của cô bé xương thủy tinh”, ông đã luôn trăn trở về căn bệnh này và đau đáu cho số phận của các bệnh nhân đang từng ngày, từng giờ phải chịu đựng sự đau đớn về tinh thần lẫn thể xác. Điều đó thôi thúc ông nghiên cứu tài liệu, đặc biệt là gặp gỡ, trao đổi với các bác sĩ chuyên khoa xương khớp để hiểu biết kĩ về bệnh xương thủy tinh. Và một ý tưởng đã được ông phát hiện ra là bệnh xương thủy tinh do thiếu collagen, mà collagen trong xương cá sấu thì có rất nhiều.

941da_em_be_mac_benh
Các chác nhỏ mắc bệnh xương thủy tinh đang được theo dõi và điều trị tại Công ty Cá sấu Hoa Cà
9a024_san_pham_cao_ca_sau1
Cao xương cá sấu được kết hợp với các vị thuốc làm thành những viên thuốc có nhiều mùi vị khác nhau.
22ff4_benh_vien_tri_xuong_thuy_tinh
Kiểm tra phác đồ điều trị bệnh xương thủy tinh trước khi mổ cho bệnh nhân.
5156a_benh_vien_tri_xuong_thuy_tinh1
Ca phẫu thuật chỉnh lại xương chân của một bệnh nhân bị bệnh xương thủy tinh sau khi đã được điều trị bằng cao xương cá sấu.
42905_bac_si_dai_hoc_y_duoc
Một bệnh nhân xương thủy tinh được điều trị tại Viện Y Dược học Dân tộc Tp. Hồ Chí Minh.
a94de_bac_si_dai_hoc_y_duoc1
Bác sĩ Trần Văn Năm, Viện phó Viện Y Dược học dân tộc Tp. Hồ Chí Minh, người đã cùng với ông Tôn Thất Hưng tìm ra phương pháp điều trị bệnh xương thủy tinh bằng chế phẩm cao xương cá sấu.

Liệu pháp 4T – hi vọng mới cho bệnh nhân xương thủy tinh

Các bệnh nhân xương thủy tinh đang được điều trị theo liệu pháp 4T của Viện Y Dược Học Dân Tộc TPHCM

Từ một cô bé không thể tự ngồi, trải qua 3 năm điều trị bằng liệu pháp 4T của Viện

Bệnh xương thủy tinh (xương bất toàn, Osteogenesis imperfecta) là một bệnh hiếm gặp do tổn thương gene chịu trách sản xuất một yếu tố quan trọng có trong các mô liên kết của cơ thể là collagen. Collagen có vai trò kết dính, tạo độ bền cho các bộ phận cơ thể như khung xương. Khi collagen bị thiếu sót về số lượng và chất lượng sẽ gây bệnh trong đó có bệnh xương thủy tinh, khiến cho xương dễ gãy dù với chấn động nhẹ.

Các bệnh nhân xương thủy tinh đang được điều trị theo liệu pháp 4T của Viện Y Dược Học Dân Tộc TPHCM
Các bệnh nhân xương thủy tinh đang được điều trị theo liệu pháp 4T của Viện Y Dược Học Dân Tộc TPHCM
BS Trần Văn Năm, Phó Viện trưởng Viện Y Dược Học Dân Tộc TPHCM cho biết: “Bệnh xương thủy tinh chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu, biện pháp điều trị gene là hướng điều trị triệt để trong tương lai. Hiện tại, Viện Y Dược Học Dân Tộc kết hợp với một công ty nuôi cá sấu hỗ trợ điều trị cho nhiều trường hợp bị bệnh xương thủy tinh và có hiệu quả bước đầu”.

Điển hình là em Lê Thị Thị Xuân Quyên 14 tuổi, đến từ Bến Tre. Từ lúc chào đời cho đến khi 11 tuổi, bệnh nhân trải qua 8 lần gãy xương, đau nhiều ở đùi phải, gây mất ngủ, không tự ngồi và chân phải cử động rất khó khăn.

Sau 3 năm trị liệu hỗ trợ bằng liệu pháp 4T: Tập luyện thể lực (bơi), Thực dưỡng (đủ chất dinh dưỡng), Tâm lý (động viên tinh thần), Thuốc (Crocobone; thuốc bổ Đông dược, cao cá sấu) và phẫu thuật chỉnh hình, hiện nay Xuân Quyên tự ngồi, bơi được thời gian dài, tăng cân, tinh thần vui tươi hơn trước. Quyên cũng đang tích cực tập đi bằng nạng và đi được 25m.
Bé Xuân Quyên năm 2010
Bé Xuân Quyên năm 2010
Sau 3 năm điều trị, Xuân Quyên đã đi được bằng nạng
Sau 3 năm điều trị, Xuân Quyên đã đi được bằng nạng

Từ kết quả đáng khích lệ này, mô hình điều trị xương thủy tinh của Viện đã đón nhận hơn 100 bệnh nhân (nội trú, ngoại trú) từ sơ sinh tới 20 tuổi, đến từ nhiều tỉnh thành trên cả nước.

Đây là kết quả bước đầu, BS. Trần Văn Năm hi vọng với mô hình điều trị hỗ trợ hiện nay giúp tăng chất lượng sống cho người bệnh và sẽ làm nền tảng cho quy trình điều trị các bệnh lý của hệ xương khớp khác như: loãng xương, thoái hóa khớp…

 

 

 

Đơn vị liên kết

thoi gian lam viec







r>

BÀI MỚI