



1. Định nghĩa
Cách đây gần 3.000 năm, người xưa đã nhận thấy sự vật luôn luôn có mâu thuẫn nhưng thống nhất với nhau, không ngừng vận động, biến hoá để phát sinh, phát triển và tiêu vong, gọi là Học thuyết âm dương.
Trong y học, Học thuyết âm dương quán triệt từ đầu đến cuối, từ đơn giản đến phức tạp trong suốt quá trình cấu tạo cơ thể, sinh lý, bệnh lý, chẩn đoán, và các phương pháp chữa bệnh y học cổ truyển (thuốc, châm cứu, xoa bóp, khí công v.v…)
2 Các quy luật cơ bản trong học thuyết âm dương
2.1 Âm dương đối lập với nhau
Đối lập là sự mâu thuẫn, chế ước và đấu tranh giữa hai mặt âm dương.
Thí dụ: ngày và đêm, nước và lửa, ức chế và hưng phấn v.v..
2.2. Âm dương hỗ căn
Hỗ căn là sự nương tựa lẫn nhau. Hai mặt âm dương tuy đối lập với nhau nhưng phải nương tựa lẫn nhau mới tồn tại được, mới có ý nghĩa. Cả hai mặt đều là tích cực của sự vật, không thể đơn độc phát sinh, phát triển được.
Thí dụ: Có đồng hoá mới có dị hoá, hay ngược lại nếu không có dị hoá thì quá trình đồng hoá không tiếp tục được. Có số âm mới có số dương. Hưng phấn và ức chế đều là quá trình tích cực của hoạt động vỏ não.
2.3. Âm dương tiêu trưởng
Tiêu là sự mất đi, trưởng là sự phát triển, nói lên sự vận động không ngừng sự chuyển hoá lẫn nhau giữa hai mặt âm dương.
Như khí hậu 4 mùa trong năm luôn thay đổi từ lạnh sang nóng, từ nóng sang lạnh, từ lạnh sang nóng là quá trình “âm tiêu dương trưởng” từ nóng sang lạnh là quá trình “dương tiêu âm trưởng” do đó có khí hậu mát, lạnh, ấm và nóng.
Sự vận động của hai mặt âm dương có tính chất giai đoạn, tới mức độ nào đó sẽ chuyển hoá sang nhau gọi là “dương cực sinh âm, âm cực sinh dương; hàn cực sinh nhiệt, nhiệt cực sinh hàn”.
Như trong quá trình phát triển của bệnh tật, bệnh thuộc phần dương (như sốt cao) có khi gây ảnh hưởng đến phần âm (như mất nước), hoặc bệnh ở phần âm (mất nước, mất điện giải) tới mức độ nào đó sẽ ảnh hưởng đến phần dương (như choáng, truỵ mạch gọi là thoát dương).
2.4. Âm dương bình hành
Hai mặt âm dương tuỵ đối lập, vận động không ngừng, nhưng luôn lặp lại được thế thăng bằng, thế quân bình giũa hai mặt.
Sự mất thăng bằng giữa hai mặt âm dương nói lên sự mâu thuẫn thống nhất, vận động và nương tựa lẫn nhau của vật chất.
Từ 4 quy luật trên, khi vận dụng trong y học người ta còn thấy một số phạm trù sau:
a) Sự tương đối và tuyệt đối của hai mặt âm dương:
Sự đối lập giữa hai mặt âm dương là tuyệt đối, nhưng trong điều kiện cụ thể nào đó có tính chất tương đối. Thí dụ: hàn thuộc âm đối lập với nhiệt thuộc dương, nhưng lương (là mát) thuộc âm đối lập với ôn (là ấm) thuộc dương. Trên lâm sàng tuy sốt (là nhiệt) thuộc dương, nếu sốt cao thuộc lý thuộc lý dùng thuốc hàn, sốt nhẹ thuộc biểu dùng thuốc mát (lương).
b) Trong âm có dương và trong dương có âm:
Âm và dương nương tựa lẫn nhau cùng tồn tại, có khi xen kẽ vào nhau trong sự phát triển. Như sự phân chia thời gian trong một ngày (24 giờ): ban ngày thuộc dương, từ 6 giờ sáng đến 12 giờ trưa là phần dương của dương. Từ 12 giờ đến 18 giờ là phần âm của dương; ban đêm thuộc âm, từ 18 giờ – 24 giờ là phần âm của âm từ 0 giờ đến 6 giờ là phần dương của âm.
Trên lâm sàng, khi cho thuốc làm ra mồ hôi để hạ sốt, cần chú ý tránh cho ra mồ hôi nhiều gây mất nước và điện giải, về triệu chứng thấy xuất hiện các chứng hư thực, hàn nhiệt lẫn lộn. Về cấu trúc của cơ thể, tạng thuộc âm như can, thận có can âm (can huyết), can dương (can khí), thận âm (thận thuỷ), thận dương (thận hoả) v.v…
c) Bản chât và hiện tượng:
Thông thường bản chất thường phù hợp với hiện tượng, khi chữa bệnh người ta chữa vào bản chất bệnh: như bệnh hàn dùng thuốc nhiệt, bệnh nhiệt dùng thuốc hàn.
Nhưng có lúc bản chất không phù hợp với hiện tượng gọi là sự “thật giả” (chân giả) trên lâm sàng, khi chẩn đoán phải xác định cho đúng bản chất để dùng thuốc chữa đúng nguyên nhân.
Thí dụ: bệnh truyền nhiễm gây sốt cao (chân nhiệt) do nhiễm độc gây truỵ mạch ngoại biên làm chân tay lạnh, ra mồ hôi lạnh (giả hàn) phải dùng thuốc mát để chữa bệnh.
– Bệnh ỉa chảy do lạnh (chân hàn) do mất nước, mất điện giải gây nhiễm độc thần kinh làm co giật, sốt (giả nhiệt) phải dùng các thuốc nóng, ấm để chữa nguyên nhân.
Các quy luật âm dương, các phạm trù của nó được biểu hiện bằng một hình tròn có hai hình cong chia diện tích làm hai phần bằng nhau: một phần là âm, một phần là dương. Trong phần âm có nhân dương và trong phần dương có nhân âm (xem hình ).
3. Ứng dụng trong y học
3.1. Về cấu tạo cơ thế và sinh lý
Âm: tạng, kinh âm, huyết, bụng, trong, dưới v.v…
Dương: phủ, kinh dương, khí, lưng, ngoài, trên v.v…
– Tạng thuộc âm, do tính chất trong âm có dương nên còn phân ra phế âm, phế khí; thận âm, thận dương; can huyết, can khí; tâm huyết, tâm khí. Phủ thuộc dương như vì trong dương có âm nên có vị âm và vị hoả…
– Vật chất dinh dưõng thuộc âm, cơ năng hoạt động thuộc dương.
3.2. Về quá trình phát sinh và phát triển của bệnh tật
a) Bệnh tật phát sinh ra do sự mất thăng bằng về âm dương trong cơ thể được biểu hiện bằng thiên thắng hay thiên suy:
– Thiên thắng: dương thắng gây chứng nhiệt: sốt, mạch nhanh, khát nước, táo, nước tiểu đỏ; âm thắng gây chứng hàn: người lạnh, tay chân lạnh, mạch trầm, ỉa lỏng nước tiểu trong v.v…
– Thiên suy: dương hư như các trường hợp não suy, hội chứng hưng phấn thần kinh giảm; âm hư: như mất nước, điện giải, hội chứng ức chế thần kinh giảm.
b) Trong quá trình phát triển của bệnh, tính chất của bênh còn chuyến hoá lẫn nhau giữa hai mặt âm dương. Bệnh ở phần dương ảnh hưỏng tới phần âm (dương thắng tắc âm bệnh). Thí dụ sốt cao kéo dài sẽ gây mất nước. Bệnh ở phần âm ảnh hưởng tới phần dương (âm thắng tắc dương bệnh). Thí dụ ỉa lỏng, nôn mửa kéo dài mất nước, điện giải làm nhiễm độc thần kinh, gây sốt, co giật thậm chí gây truỵ mạch (thoát dương)
c) Sự mất thăng bằng của âm dương gây ra những chứng bệnh ở những vị trí khác nhau của cơ thê tuỳ theo vị trí đó ở phần âm hay dương.
Dương thịnh sinh ngoại nhiệt: sốt, người và tay chân nóng, vì phần dương của cơ thể thuộc biểu, thuộc nhiệt.
Âm thịnh sinh nội hàn: ỉa chảy, người sợ lạnh, nước tiểu trong dài vì phần âm thuộc lý thuộc hàn.
Âm hư sinh nội nhiệt: như mất nước, tân dịch giảm gây chứng khát nước, họng khô, táo, nước tiểu đỏ v.v…
Dương hư sinh ngoại hàn: sợ lạnh, tay chân lạnh vì phần dương khí ở ngoài bị giảm sút.
3.3. Về chẩn đoán bệnh tật
a) Dựa vào 4 phương pháp khám bệnh: nhìn (vọng), nghe (văn), hỏi (vấn) sờ nắn, xem mạch (thiết) để khai thác các triệu chứng thuộc hàn hay nhiệt, hư hay thực của các tạng phủ kinh lạc.
b) Dựa vào 8 cương lĩnh để đánh giá vị trí nông sâu của bệnh, tính chất của bệnh, trạng thái người bệnh và xu thế chung nhất của bệnh tật (biểu lý, hư thực, hàn nhiệt và âm dương) trong đó âm và dương là 2 cương lĩnh tổng quát nhất gọi là tổng cương: thường bệnh ở biểu, thực, nhiệt thuộc dương; bệnh ở lý, hư, hàn thuộc âm.
c) Dựa vào tứ chẩn để khai thác triệu chứng và căn cứ vào bát cương bệnh tật được quy thành các hội chứng thiên thắng hay thiên suy về âm dương của các tạng phủ, kinh lạc v.v…
3.4. Về chữa bệnh và các phương pháp chữa bệnh
a)Chữa bệnh là điều hoà lại sự mất thăng bằng về âm dương của cơ thể tuỳ theo tình trạng hư thực, hàn, nhiệt của bệnh bằng các phương pháp khác nhau: thuốc, châm cứu, xoa bóp, khí công v.v…
b) Về thuốc được chia làm hai loại:
– Thuốc lạnh, mát (hàn, lương) thuộc âm để chữa bệnh nhiệt thuộc dương.
– Thuốc nóng, ấm (nhiệt, ôn) thuộc dương để chữa bệnh hàn thuộc âm.
c) Về châm cứu:
– Bệnh nhiệt dùng châm, bệnh hàn dùng cứu; bệnh hư thì bổ, bệnh thực thì tả.
Bệnh thuộc tạng (thuộc âm) thì dùng các huyệt Du sau lưng (thuộc dương); bệnh thuộc phủ (thuộc dương) thì dùng các huyệt Mộ ở ngực, bụng (thuộc âm), theo nguyên tắc: “theo dương dẫn âm, theo âm dẫn dương”.
(nguồn vatm.edu.vn)
Bệnh xơ gan là gì?
Xơ gan hay gọi chính xác hơn là chai gan, là giai đoạn sau của viêm gan mạn. Xơ gan là hậu quả của việc lá gan bị các tác nhân gây hại cho gan tấn côngtrong thời gian lâu dài dẫn đến tế bào gan bị hư hại, chết dần và tạo ra các mô sẹo, không phục hồi được làm cho gan chai cứng dần dần và không thực hiện được những chức năng bình thường của gan (suy gan).
(BS CKII Lê Văn Hải – Trưởng Khoa Khám Bệnh Viện Y Dược Học Dân Tộc)
Không có gì tệ hơn khi ai đó bị mất ngủ. Mất ngủ còn gọi là rối loạn giấc ngủ; dù khó đi vào giấc ngủ, không duy trì đủ tình trạng ngủ hay thức dậy quá sớm đều ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, đặc biệt xảy ra trên những người trong độ tuổi lao động. Khi mất ngủ, cơ thể không có thời gian bù đắp lại năng lượng mất đi trong ngày làm việc trước đó. Trung bình một người lớn ngủ từ 4 đến 8 giờ, nhưng đánh giá giấc ngủ không chỉ dựa vào số giờ ngủ mà còn tuỳ thuộc vào chất lượng giấc ngủ, tức là cảm giác thoải mái và đủ sức để phục vụ cho một ngày làm việc tiếp theo. Nếu một người dù ngủ được 8 giờ một đêm nhưng sáng hôm sau vẫn có cảm giác mệt mỏi, uễ oãi thì coi như giấc ngủ chưa đạt chất lượng. Ngược lại, dù ngủ chỉ 5 giờ nhưng cơ thể sảng khoái và vui vẻ để bắt đầu một ngày làm việc mới thì giấc ngủ đạt yêu cầu.
1. Các yếu tố thuận lợi và nguyên nhân của mất ngủ
1.1. Yếu tố bên ngoài:
– Căng thẳng trong công việc hoặc tài chính
– Xung đột với người chung quanh
– Sự cố lớn trong cuộc sống
– Mệt mỏi do công việc hoặc làm việc theo ca – kíp
1.2. Bệnh nội khoa:
– Tim mạch: mạch vành, loạn nhịp tim, suy tim
– Hô hấp: hen phế quản, ngưng thở khi ngủ
– Đau mạn tính
– Bệnh nội tiết: đái tháo đường, cường giáp
– Tiêu hoá: viêm – loét dạ dày, viêm dạ dày – thực quản trào ngược
– Thần kinh: Parkinson, động kinh
– Phụ nữ đang mang thai
1.3. Tâm thần kinh:
– Rối loạn tính cách: trầm cảm, loạn thần
– Rối loạn lo âu
– Hội chứng cai thuốc, rượu
1.4. Mất ngủ do sử dụng một số thuốc:
– Thuốc chống động kinh
– Thuốc hạ huyết áp nhóm ức chế giao cảm
– Thuốc lợi tiểu
– Nhóm steroid, thuốc hưng phấn thần kinh.
Tuỳ theo mức độ và nguyên nhân của mất ngủ, Y học hiện đại có nhiều thế hệ thuốc từ thuốc kháng histamine tại thụ thể H 1 thế hệ 1 đến thuốc an thần gây ngủ để điều trị chứng mất ngủ tuy nhiên nếu sử dụng kéo dài thường có những phản ứng ngoại ý nhất định.
2. Y học cổ truyền với các biện pháp không dùng thuốc cũng như dùng thuốc có thể giúp cải thiện đáng kể giấc ngủ:
2.1. Không dùng thuốc:
– Tâp thói quen nên ngủ và thức vào một thời điểm nhất định trong đêm,
– Không nên ngủ vào buổi trưa quá dài (trung bình 15 – 30 phút là đủ),
– Phòng ngủ cần yên tĩnh, thoáng (không quá nhiều vật, sách vỡ…), ánh sáng phù hợp (không quá sáng),
– Không ăn quá no hoặc ngược lại bị quá đói sẽ ảnh hưởng đến giấc ngủ,
– Tránh uống trà, cà phê đậm đặc vài giờ trước khi ngủ,
– Tập thở sâu, đặc biệt thở cơ hoành (thở vào sâu, bụng di động theo nhịp thở trong khi hạn chế cử động của lồng ngực: vai không nhấc lên, cơ cổ, cơ ngực không co kéo mạnh).
– Tập thư giãn: nằm thả lỏng các cơ từ mặt, cổ, ngực, bụng, tay, chân; không nghĩ ngợi miên man; tập trung tư tưởng theo dõi vào động tác hít vào thở ra đều đặn; tự nhủ rằng tay chân và toàn thân tôi có cảm giác nặng ấm. Thực hiện tốt thư giãn, giấc ngủ sẽ dễ dàng có chất lượng.
– Day ấn một số huyệt có tác dụng dịu sự căng thẳng và an thần như: Huyệt Ấn đường (điểm giữa hai đầu trong chân mày), huyệt An miên (điểm sau trái tai khoảng 1,5 cm), huyệt Nội quan (điểm giữa 2 gân cơ trên nếp gấp cổ tay khoảng 3 cm), huyệt Tam âm giao (điểm trên chỗ cao nhất của mắt cá trong khoảng 4 cm, sát bờ sau xương chày), huyệt Túc tam lý (dưới góc dưới xương bánh chè khoảng 4 cm, phía ngoài bờ trước xương chày).
– Xoa nóng bàn chân cả mặt lòng và mặt lưng, hoặc ngâm bàn chân trong nước ấm khoảng 50 0c.
2.2. Sử dụng thuốc: một số dược liệu dễ tìm quanh ta có tác dụng trấn tĩnh giúp dễ ngủ:
– Rau nhút: Rau nhút non được sử dụng nấu canh với cá, thịt, tôm
– Củ sen: là phần cây nằm dưới bùn có tác dụng an thần, bổ dưỡng
– Hạt sen: có nhiều chất dinh dưỡng và an thần kinh
– Tâm sen: phần lõi màu xanh nằm giữa Hạt sen, có tác dụng chống hồi hộp, mất ngủ.
– Củ súng: có lợi cho người suy nhược tâm – thần kinh, rối loạn giấc ngủ.
– Nhãn nhục: nấu nước hoặc kết hợp Hạt sen, Táo nấu chè giúp dẽ ngủ.
– Lá vong nem: có tác dụng an thần mạnh khi hấp vào nồi cơm hoặc luộc hay nấu chung với vài vị thuốc khác.
– Lạc tiên: bộ phận dùng là Lá và Thân, có tác dụng an thần kinh, giúp tăng chất lượng giấc ngủ.
– Ăn hoặc uống nước ép quả Cà chua, Cà rốt, Quả Bơ, trái khóm, chuối… vì có chứa nhiều vitamin B2, B3, B6, C… giúp cơ thể tạo được chất Serotonin, một neurohormone giúp ngủ.
Tuy nhiên, nếu áp dụng các biện pháp trên vẫn chưa cải thiện được giấc ngủ. Chúng ta cần tìm hiểu đánh giá tinh trạng cụ thể của người bệnh, YHCT gọi là Biện chứng luận trị, nghĩa là tìm ra cơ quan quan nào của cơ thể hiện bất ổn, tổng trạng tốt hay suy nhược để chọn vị thuốc hoặc bài thuốc phù hợp.
Bs Trần Văn Năm (Viện YDHDT TP.HCM)
Hải Thượng Lãn Ông tên hiệu là Lê Hữu Trác tên thường là Lê Hữu Chẩn, là một đại y tôn của nước ta.
Sinh ngày 12/11/1724 năm Giáp Thìn về cuối đời Hậu Lê, ở thôn Văn Xá, làng Lưu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương, (nay là thôn Thanh Xá, xã Hoàng Hữu Nam, huyện Yên Mỹ, Hải Hưng). Mất ngày rằm tháng Giêng năm Tân Hợi, niên hiệu Quang Trung thứ 4 (1791) tại xã Tình Diễm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Cha là Lê Hữu Mưu đỗ tiến sĩ, làm Thượng Thư đời Lê Dụ Tôn, mẹ quê ở Bàu Thượng, làng Tình Diễm, Hương Sơn, Hà Tĩnh. Hồi nhỏ theo cha đi học ở Thăng Long, năm 1739 cha mất, lớn lên gặp thời loạn, vua Lê hư vị, Chúa Trịnh lộng quyền, các nơi đều nổi dậy chống đối, có phen Lãn ông cũng ra cầm quân dẹp loạn, nhưng vì chán ghét cuộc chém giết tương tàn ấy, nên nhân có tin người anh ở Hương Sơn mất, ông bèn viện cớ về quê nuôi mẹ. Nhân bị đau ốm, Lãn ông mới tìm đến vị Lương y Trần Độc ở núi Thành, xã Hương Cần, huyện Thanh Chương, Nghệ An để chữa bệnh. Trong thời gian ở đó hơn 2 năm, Lãn ông đã nghiên cứu các sách y học kinh điển nhất là bộ Phùng Thị Cẩm Nang và cùng họ Trần bàn luận về y học.
Bấy giờ có Hải Quận Công biết Lãn Ông văn võ kim toàn muốn mời ra cầm quân lần nữa, nhưng vì chán ghét chiến tranh, không ham danh lợi Lãn Ông đã cương quyết chối từ, trở về Hương Sơn nghiên cứu y học và chữa bệnh.
Năm 1760, mẹ mất, lúc đó tuy mới 35 tuổi đã nổi tiếng là danh y, ngoài việc chữa bệnh, Hải Thượng Lãn Ông đã mở lớp dạy cho đồ đệ. Suốt hai mươi mấy năm lưu tâm nghiên cứu, đem hết tài năng và tinh thần tận tụy chữa bệnh và giảng dạy. Hải Thượng đã lĩnh hội được nguyên lý uyên thâm của Đông y, thu lượm bao kinh nghiệm phong phú về chẩn trị, đúc kết lại thành một hệ thống kết hợp chặt chẽ lý luận với thực tiễn lâm sàng trong một tác phẩm rất lớn và rất có giá trị là bộ Y Tông Tâm Lĩnh. Ngoài ra lại còn viết tập”Vệ Sinh Yếu Quyết” và một bản gọi “Nữ Công Thắng Lãm”.
Năm 1782, đời Lê Hiến Tông, Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 43, bấy giờ đã ngoài 60 tuổi Hải Thượng bị triệu về Kinh để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán con Chúa Trịnh Sâm.
Ở triều đình, bị các ngự y ganh tị gièm pha, mãi sau Hải Thượng mới được phép chữa nên không có kết quả. Nhân ở kinh đô một năm ông tìm mọi cách để in bộ sách của mình nhưng không thành công, lại có ý tìm lại các vị danh y tại đó để trao đổi học thuật nhưng chỉ thu lượm được một số bài thuốc kinh nghiệm hoặc gia truyền. Hải Thượng đã kể lại cuộc hành trình này ở tập Thượng Kinh Ký Sự, một tài liệu văn học có giá trị phản ánh đời sống của xã hội Việt Nam hồi đó.
Lãn Ông trở về Hương Sơn tiếp tục nghiên cứu, chữa bệnh, giảng dạy và hoàn thành bộ Y Tông Tâm Lĩnh, bộ sách Đông y lớn nhất và quí nhất ở nước ta: gồm 63 cuốn (nay chỉ còn 55 cuốn) do Vũ Xuân Hiên thu thập lại và đem in năm 1866.
Nội dung bao gồm y lí, chẩn trị, phương dược, trình bày có hệ thống, kết hợp lý luận với thực tiễn, phân tích chứng minh rõ ràng, như bàn về Thủy Hỏa thì có cuốn Huyền Tẩn Phát Vi, bàn về khí huyết có cuốn Khôn Hóa Thái Chân, trị các bệnh ngoại cảm thì có Ngoại Cảm Thông Trị, biện biệt tạp chứng thì có Bách Bệnh Cơ Yếu, chẩn đoán thì có Y Gia Quan Miện, biện luận thì có Đạo Lưu Dư Vận, vận khí có Vận Khí Bí Điển … cho đến các loại phụ khoa (Phụ Đạo Xán Nhiên), nhi khoa (Ấu Ấu Tu Tri) đều viết một cách tinh thông, giầu kinh nghiệm.
Tuy chịu ảnh hưởng của y học Trung Hoa nhất là Phùng Thị nhưng Lãn Ông đã có óc sáng tạo vận dụng y lí hợp với hoàn cảnh khí hậu và thể chất của người Việt Nam và đã sử dụng thuốc Nam để chữa bệnh, như ở các cuốn Lĩnh Nam Bản Thảo, Bách Gia Trân Tàng và Hành Giản Trân Nhu. Nhận định về Lĩnh Nam không có thương hàn, Lãn Ông đã lập ra nhiều phương thang mới ghi ở cuốn Ngoại Cảm Thông Trị. Đặc biệt trong 2 cuốn Dương Án và Âm Án, ghi lại những y án và phân tích về những bệnh đã chữa khỏi hoặc không chữa được. Cuốn Châu Ngọc Cách Ngôn để lại cho chúng ta những điều căn dặn rất bổ ích về chẩn đoán trị liệu và những sai lầm tai hại cần tránh.
Thân thế và sự nghiệp của Lãn Ông đã có một ảnh hưởng rất lớn đối với giới Đông y Việt Nam cả về mặt đạo đức và chuyên môn.
Bộ sách Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh gồm 28 tập, 66 quyển, nội dung gồm:
1. Tập đầu: Có bài tựa, Phàm lệ mục lục và Y nghiệp phần chương nói về nghề y, thái độ tư cách, khái quát bộ sách và tập thơ Y Lí Thâu Nhàn.
2- Tập Nội Kinh Yếu Chỉ: nêu khái yếu về cuốn kinh điển Nội kinh.
3. Tập Y Gia Quan Miện: Khái niệm về Âm dương, Ngũ hành, quẻ số, can chi, mạch yếu.
4. Tập Y Hải Cầu Nguyên: Soạn những lời thiết yếu của các tiên hiền, chú giải kỹ để làm rõ những điều huyền bí.
5. Tập Huyền Tẫn Phát Vi: Nói rõ công dụng mở đầu của ‘Tiên thiên’, máy Âm dương, khiếu Thủy Hỏa và cách phân biệt chứng trạng, dùng thuốc.
6- Tập Khôn Hóa Thái Chân: gồm có công dụng nuôi sống của ‘Hậu thiên’ nguồn gốc của khí huyết, cách luận bệnh xử phương.
7- Tập Đạo Lưu Dự Vận: đem các ý nghĩ còn nghi hoặc, chưa rõ nghĩa trong các sách, cùng với những chỗ người xưa chưa nói đến để biện luận rõ ràng mà bổ sung vào những chỗ còn thiếu sót.
8. Tập Vận Khí Bí Điển: chọn lấy bài phú Chiêm Vận, phong giác của họ Vương và thiên Ngọc Lịch, ngũ hành, chia ra cách xem mây, xem gió, chủ vận, khách vận, chủ khí, khách khí, lập thành từng cách nghiệm đoán.
9. Tập Dược Phẩm Vậng Yếu: chọn lấy 150 vị thuốc thường dùng trong Bản thảo, chia làm 5 bộ để tiện tra khảo.
10- Tập Lĩnh Nam Bản Thảo: soạn các vị thuốc cây cỏ ở Lĩnh Nam (bao gồm Việt Nam và miền Nam Trung quốc), chia thành môn loại, chú thích tính chất, cách chữa, cách thu hái…
11- Tập Ngoại Cảm Thông Trị bàn về nước Nam ta không có bệnh thương hàn, mắc bệnh ngoại tà, đều là bệnh cảm mạo, tác giả không theo hình chứng lục kinh của Thương hàn luận nhưng Lãn Ông đã sáng chế ra 3 phương giải Biểu, 6 phương hòa Lý để chữa tất cả các bệnh ngoại cảm.
12- Tập Bách Bệnh Cơ Yếu: chọn lấy các bệnh, môn trong sách kinh điển, xét nguyên nhân, cơ chế bệnh, phân biệt chứng trạng hư thực, tiên lượng cách chữa, xử phương, dụng dược.
13. Tập Y Trung Quan Miện: soạn những điều hay mà tác giả đã lĩnh hội được ý nghĩa sâu sắc, những điểm cốt yếu.
14. Tập Phụ Đạo Xán Nhiên” chọn lọc trong các sách Phụ khoa những vấn đề về kinh nguyệt, đới hạ, thai, sản… lấy những điểm thiết thực cốt yếu, bỏ chỗ rườm rà… đồng thời bổ sung thêm những ý kiến của tác giả.
15. Tập “Tọa Thảo Lương Mô”, tác giả thấy trong nhiều sách trước đó về Sản khoa viết rườm rà, được điều nọ, mất điều kia nên ông soạn, sắp xếp lại, bổ sung hoàn chỉnh hơn.
16. Tập Ấu Ấu Tu Tri: tác giả thấy trong nhiều sách Nhi khoa trước đó viết rời rạc, không thống nhất nên tác giả đã soạn lại, xét nguyên nhân cơ chế bệnh sinh, phân biệt chứng trạng cách chữa, xử phương làm chỗ cốt yếu và thêm phần tâm đắc.
17. Tập Mộng Trung Giác Đậu: trình bày đầy đủ các kiến thức về bệnh Đậu… và bổ sung thêm kinh nghiệm đặc sắc phong phú.
18. Tập Ma Chẩn Chuẩn Thằng: soạn các phương pháp và kinh nghiệm tâm đắc trong điều trị bệnh sởi.
19. Tập Tâm Đắc Thần Phương: trong khi lâm lâm sàng, tác giả đã hết sức suy nghĩ chọn ra nhiều phương thuốc thần diệu trong Phùng Thị Cẩm Nang.
20. Tập “Hiệu Phỏng Tân Phương: trong khi lâm sàng tác giả đã hết sức suy nghĩ lập ra nhiều phương thuốc đáp ứng với tình thế khó khăn.
21. Tập Bách Gia Trân Tàng: tiếp thu bí phương của ông ngoại truyền lại cùng thu thập các phương thuốc quý, chữa được nhiều trường hợp khó.
22. Tập Hành Giản Trân Nhu: chọn lấy các bài thuốc có những vị thuốc Nam, thuốc Bắc thông thường, dễ kiếm, tiện dùng.
23. Tập Y Phương Hải Hội: tập hợp soạn các thang tễ, hoàn tễ trong các sách, rườm rà thì giảm đi, thiếu thì bổ sung thêm.
24. Tập Y Án, Dương Án: Tập hợp tâm đắc suy nghĩ về những trường hợp nguy nan mà chữa thành công.
25. Tập Y Án, Âm Án: tập hợp những bệnh án bệnh nặng, khó, tình thế tuyệt vọng dù cố hết sức mà không kết quả để rút kinh nghiệm.
26. Tập Truyền Tâm Bí Chỉ hoặc còn gọi là Châu Ngọc Cách Ngôn, biện luận rõ ràng đầy đủ những nghĩa lý sâu xa trong sách, những chỗ tinh hoa của y thuật.
27. Tập Vĩ. (cuối) là cuốn Thượng Kinh Ký Sự, thuật lại cuộc lên kinh thành chữa bệnh cho Chúa Trịnh. Chỉ với giá trị sử học, văn học của cuốn ký sự này đã làm cho sự nghiệp văn hóa của Hải Thượng Lãn ông nổi danh không kém gì sự nghiệp y học của tác giả. Về sau đă thu thập được nốt 2 cuốn là Nữ Công Thắng Lãm và Vệ Sinh Yếu Quyết.
28. Tập của Pho Sách Bách Khoa Thư về Đông y “Lãn ông tâm lĩnh” là 28 viên ngọc quý, 28 vị sao (nhị thập bát tú) của bầu trời Y học phương Đông.
(nguồn vatm.edu.vn)
Ngày 16/8, Tỉnh Đoàn Vĩnh Long phối hợp với Bệnh viện Mắt, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Bệnh viện Từ Dũ và Viện Y Dược học Dân tộc Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức hành trình nhân ái “Vì sức khỏe cộng đồng”. Gần 100 thầy thuốc trẻ tham gia khám chữa bệnh cho 900 bệnh nhân tại 2 huyện Mang Thít và Trà Ôn.
Đoàn đã mổ mắt miễn phí cho 100 bệnh nhân (Mang Thít), khám nội khoa tổng quát và phát thuốc miễn phí cho 250 bệnh nhân (xã An Phước và Chánh An, Mang Thít), chăm sóc răng miệng, khám sản phụ khoa và khám nội khoa tổng quát, phát thuốc miễn phí cho 550 bệnh nhân (xã Tân Mỹ, Trà Ôn).
Dịp này, đoàn cũng dành tặng 200 phần quà cho các hộ nghèo, gia đình chính sách, tặng 3.000 quyển tập cho học sinh nghèo tại địa phương.
Đây là hoạt động tình nguyện trong Chiến dịch Kỳ nghỉ hồng năm 2014 nhằm phát huy tinh thần xung kích, tình nguyện của tuổi trẻ cùng với địa phương làm tốt công tác an sinh xã hội, đặc biệt là trong vấn đề chăm sóc sức khỏe nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.
Cứ hè tới, hàng chục người ở mọi miền lại tìm về ngôi chùa đó không phải để ăn chay, niệm Phật… mà là để học nghề mát-xa.
Lớp học mát-xa của chùa Kỳ Quang 2 (Quận Gò Vấp, TP HCM) chỉ tổ chức vào dịp hè, kéo dài trong 2,5 tháng.
Học viên không cần phải ghi chép, cũng không có giáo trình, chỉ học bằng tai, máy ghi âm, điện thoại,… bởi tất cả học viên đều là người khiếm thị.
Đây là lớp học miễn phí, hướng nghiệp được chùa Kỳ Quang 2 kết hợp với Viện Y Dược học dân tộc TP HCM tổ chức.
Nghề mát-xa là 1 công việc thích hợp đối với người mù. Năm nay chùa nhận 70 người khiếm thị để dạy nghề.
Học viên đến từ nhiều vùng miền, đủ mọi lứa tuổi, có người đã ngoài 60 nhưng cũng có nhiều trẻ em.
Sau thời gian học, các học viên sẽ thi kết thúc khóa, nếu đạt yêu cầu sẽ được Viện cấp chứng chỉ hành nghề. Thầy Võ Quang Hải (79 tuổi), chủ nhiệm lớp mát-xa trong suốt 12 khóa, chia sẻ:
‘Hầu hết những người khiếm thị tự tìm đến đây học, sau đó đều kiếm được việc làm ở các cơ sở mát-xa, bấm huyệt, y học cổ truyền với mức lương 2 – 3 triệu đồng/tháng.
Khóa này mới khai giảng nhưng vừa có 1 cơ sở sẵn sàng nhận người rồi’
(Nguồn zing.vn)
Từ đầu năm 2010 đến nay, Viện Y Dược học Dân tộc Tp. Hồ Chí Minh (Viện YDHDT) đã hợp tác với Công ty TNHH Cá sấu Hoa Cà nghiên cứu về tác dụng của các loại cao xương cá sấu với hệ xương con người để tìm ra một liệu pháp hỗ trợ điều trị bệnh xương thủy tinh, đem lại nguồn hi vọng lớn lao cho những bệnh nhân mắc căn bệnh hiểm nghèo này.
«…
Xương thủy tinh là một bệnh lí do tổn thương gen có chức năng tạo chất collagen trong cơ thể.
– Biểu hiện bệnh: xương dễ gãy, biến dạng khung xương, tầm vóc nhỏ, hạn chế hoặc không thể tự đi lại được.
Hiện nay, trên thế giới, xương thủy tinh được coi là căn bệnh nan y mà chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Trong khi bệnh nhân xương thủy tinh luôn gặp rất nhiều khó khăn trong việc đi lại, sinh hoạt do xương giòn, dễ gãy.
Tại Việt Nam, ông Tôn Thất Hưng, Giám đốc Công ty TNHH Cá sấu Hoa Cà, sau lần tình cờ đọc bài báo “Đôi chân của cô bé xương thủy tinh”, ông đã luôn trăn trở về căn bệnh này và đau đáu cho số phận của các bệnh nhân đang từng ngày, từng giờ phải chịu đựng sự đau đớn về tinh thần lẫn thể xác. Điều đó thôi thúc ông nghiên cứu tài liệu, đặc biệt là gặp gỡ, trao đổi với các bác sĩ chuyên khoa xương khớp để hiểu biết kĩ về bệnh xương thủy tinh. Và một ý tưởng đã được ông phát hiện ra là bệnh xương thủy tinh do thiếu collagen, mà collagen trong xương cá sấu thì có rất nhiều.
Từ một cô bé không thể tự ngồi, trải qua 3 năm điều trị bằng liệu pháp 4T của Viện
Bệnh xương thủy tinh (xương bất toàn, Osteogenesis imperfecta) là một bệnh hiếm gặp do tổn thương gene chịu trách sản xuất một yếu tố quan trọng có trong các mô liên kết của cơ thể là collagen. Collagen có vai trò kết dính, tạo độ bền cho các bộ phận cơ thể như khung xương. Khi collagen bị thiếu sót về số lượng và chất lượng sẽ gây bệnh trong đó có bệnh xương thủy tinh, khiến cho xương dễ gãy dù với chấn động nhẹ.
Điển hình là em Lê Thị Thị Xuân Quyên 14 tuổi, đến từ Bến Tre. Từ lúc chào đời cho đến khi 11 tuổi, bệnh nhân trải qua 8 lần gãy xương, đau nhiều ở đùi phải, gây mất ngủ, không tự ngồi và chân phải cử động rất khó khăn.
Từ kết quả đáng khích lệ này, mô hình điều trị xương thủy tinh của Viện đã đón nhận hơn 100 bệnh nhân (nội trú, ngoại trú) từ sơ sinh tới 20 tuổi, đến từ nhiều tỉnh thành trên cả nước.
Đây là kết quả bước đầu, BS. Trần Văn Năm hi vọng với mô hình điều trị hỗ trợ hiện nay giúp tăng chất lượng sống cho người bệnh và sẽ làm nền tảng cho quy trình điều trị các bệnh lý của hệ xương khớp khác như: loãng xương, thoái hóa khớp…